30 tháng 7, 2012

Bắc hành tạp lục - Quế Lâm công quán


47. Quế Lâm công quán 

Hoang thảo nhạ lưu huỳnh,
Nhàn giai dạ khí thanh.
Hàn đăng lưu quỉ ảnh,
Hư trướng tụ văn thanh.
Lao lạc xuân vô phận,
Sa đà lão tự kinh.
Thành đầu văn họa giác,
Tự ngữ đáo thiên minh.

桂林公館
荒草惹流螢
閒階夜氣清
寒燈留鬼影
虛帳聚蚊聲
牢落春無分
蹉跎老自驚
城頭聞畫角
自語到天明

Dịch nghĩa
Công quán Quế Lâm
Trong đám cỏ hoang đom đóm bay
Ngoài thềm vắng, hơi đêm trong mát
Ðèn lạnh giữ lại bóng ma
Màn thưa tiếng muỗi vo ve
Lo buồn xuân không đến với mình
Lần lữa thấy cảnh già giật mình kinh sợ
Nghe tiếng tù và vọng từ đầu thành
Nói chuyện một mình cho đến sáng

Đóm bay mù mịt cỏ hoang
Hơi đêm thoáng mát vắng tanh ngoài thềm
Bóng ma đèn lạnh sương đêm
Màn thưa giặc muỗi liền liền bửa vây
Lòng buồn xuân rụng bầy hầy
Dòng đời tuôn chảy nào hay tuổi già
Đầu thành vọng tiếng tù và
Thì thầm khẽ nói đón chào bình minh

Đom đóm lượn cỏ hoang
Ngoài thềm đêm mát rợn
Bóng ma vờn đèn lạnh
Màn thủng muỗi lăng xăng
Buồn giận xuân không đến
Năm tháng cứ mạnh trôi
Đầu thành tù và thổi
Tự nói đến sáng rồi

Bắc hành tạp lục - Quế Lâm Cù Các Bộ


46. Quế Lâm Cù Các Bộ 

Trung nguyên đại thế dĩ đồi đường,
Kiệt lực cô thành khống nhất phương.
Chung nhật tử trung tâm bất động,
Thiên thu địa hạ phát do trường 
Tàn Minh miếu xã đa thu thảo,
Toàn Việt  sơn hà tận tịch dương
Cộng đạo Trung Hoa thượng tiết nghĩa,
Như hà hương hỏa thái thê lương.

中原大勢已頹唐
竭力孤城控一方
終日死中心不動
千秋地下髮猶長
殘明廟社多秋草
全越山河盡夕陽
共道中華尚節義
如何香火太凄涼

Dịch nghĩa
Ông Các Bộ họ Cừ ở Quế Lâm

Triều đại lớn Trung nguyên đã suy xụp,
Ông sức tàn vẫn nhất định giữ thành.
Ngày chót sắp chết tâm không thay đổi,
Ngàn năm dưới lòng đất tóc vẫn dài.
Miếu xã nhà tàn Minh đầy cỏ thu,
Vùng đất núi Việt nhuốm bóng chiều tà.
Dân Trung Hoa nghe nói trọng tiết nghĩa,
Sao đây hương khói tiêu điều thảm thê.         

Trung nguyên sự nghiệp tan tành
Quyết tâm dồn sức giữ thành một phương
Cận kề cái chết không vương
Ngàn năm lòng đất tỏ tường lòng trung
Nhà Minh tông miếu tiêu tùng
Non sông đất Việt lạnh lùng vào đêm
Trung Hoa trọng nghĩa trọng tình
Mà sao hương khói buồn tênh thế này

Trung nguyên sự nghiệp đã tiêu tan
Cố sức một phương giữ cổ thành
Gần chết suốt ngày tâm chẳng động
Trong hòm muôn thủa tóc không sam
Minh tàn tông miếu đầy cỏ mọc
Việt khắp non sông nhuốm nắng tàn
Ai bảo Trung Hoa đầy tiết nghĩa
Mà sao hương khói ngó buồn tanh

Bắc hành tạp lục - Tam Liệt miếu


45. Tam Liệt miếu 

Thái nữ  sinh sồ Trác nữ  bôn,
Lạc hoa phi nhứ bất thăng ngôn. 
Thiên thu bi kiệt hiển tam liệt,
Vạn cổ cương thường thuộc nhất môn.
Địa hạt tương khan vô quí sắc,
Giang biên hà xứ điếu trinh hồn ?
Thanh thời đa thiểu tu như kích ,
Thuyết hiếu đàm trung các tự tôn!

三烈廟
蔡女生雛卓女奔
落花飛絮不勝言
千秋碑碣顯三烈
萬古綱常屬一門
地下相看無愧色
江邊何處吊貞魂
清時多少鬚如戟
說孝談忠各自尊

Dịch nghĩa
Miếu ba liệt nữ
Nàng Thái sinh con, nàng Trác theo trai
Hoa rụng tơ bay nói sao cho xiết
Bia kệ nghìn năm tôn thờ ba người đàn bà tiết liệt
Dưới đất nhìn nhau, sắc mặt không hổ thẹn
Bên sông, đâu nơi viếng hồn trinh ?
Thời bình lắm kẻ vểnh râu như ngọn kích
Nói hiếu bàn trung đều để suy tôn mình

Trác theo trai Thái thay chồng
Tơ bay hoa rụng chẳng buồn nói thêm
Kìa bia liệt nữ ngay liền
Vạn đời gương sáng cương thường soi chung
Chết đi chẳng luống thẹn thùng
Bên sông nào chỗ viếng hồn trung trinh
Thời bình bao kẻ hợm mình
Luận bàn trung hiếu thật tình tự tôn

Nàng Trác theo trai, Thái đổi chồng
Tơ bay hoa rụng nỗi buồn chung
Một nhà giữ trọn cương thường sáng
Muôn thủa bia ghi tiết liệt trong
Dưới đất nhìn nhau không hổ thẹn
Trên sông đâu chốn viếng trinh hồn
Thời bình lắm kẻ vênh râu mép
Nói hiếu bàn trung để tự tôn

Bắc hành tạp lục - Bất tiến hành


44. Bất tiến hành  

Vũ sư thế khấp Bằng di nộ
Ngũ chỉ sơn tiền thủy bạo chú
Bạch ba chung nhật tẩu xà long,
Thanh sơn lưỡng ngạn giai sài hổ.

Chu tiếp phân phân đồng nhất lưu,
Há than nhân hỉ thướng than sầu.
Bách trượng trường thằng vãn bất tiến,
Chu trung niên thiếu giai bạch đầu.

不進行
羽師涕泣憑夷怒
五指山前水暴注
白波終日走蛇龍
青山兩岸皆豺虎

舟楫紛紛同一流
下灘人喜上灘愁
百丈長繩挽不進
舟中年少皆白頭

Dịch nghĩa
Bài hành về việc khựng thuyền
Thần mưa khóc thần nước giận,
Vùng núi Ngũ chỉ nước trút rào rào.
Sóng bạc suốt ngày cuồn cuộn như rắn rồng,
Núi xanh hai bờ toàn sói, cọp.

Thuyền bè rộn rịp cùng một sông
Đi xuôi mừng rỡ, ngược dòng sầu bi
Trăm trượng dây dài kéo không chuyển,
Trong thuyền người trẻ cũng bạc cả đầu.

Thần thủy giận thần vũ mưa
Trước non Ngũ Chỉ ào ào nước trôi
Rắn rồng đua chạy bời bời
Núi xanh hai bến toàn loài sói beo

Thuyền bè tấp nập dòng xanh
Mừng khi xuống thác lên ghềng lại lo
Dây thừng trăm trượng nằm co
Trên thuyền trai tráng bơ phờ tóc tai

Thủy thần giận dứ, Vũ thần mưa
Trước Ngũ Chỉ sơn nước trút lùa
Sóng bạc suốt ngày như rồng rắn
Núi xanh hai bến sói beo đùa

Thuyền bè tấp nập chạy cùng sông
Lên thác buồn lo xuống thác mừng
Trăm trượng dây thừng không kéo nổi
Trên thuyền trai tráng bạc đầu chung

Bắc hành tạp lục - Triệu Vũ Đế cố cảnh


43. Triệu Vũ Đế cố cảnh 

Bạo Sở cường Tần tương kế tru,
Ung dung ấp tốn bá nam tu.
Tự ngu tẫn khả xưng hoàng đế,
Lạc thiện hoàn năng khuất thụ nhu.
Bách xích cao đài khuynh Lĩnh Biểu ,
Thiên niên cổ mộ một Phiên Ngu .
Khả liên thế đại tương canh diệt,
Bất cập man di nhất lão phu .

趙武帝故境
暴楚強秦相繼誅
雍容揖遜霸南陬
自娛儘可稱皇帝
樂善還能屈豎儒
百尺高臺傾嶺表
千年古墓沒番禺
可憐世代相更迭
不及蠻夷一老夫
 

Dch nghĩa
Đất cũ của Triệu Vũ Đế
Sở, Tần hai nước cường bạo theo nhau diệt vong
Ông cứ ung dung nhũn nhặn làm bá chủ phương nam
Tùy thích có thể xưng hoàng đế
Vui điều thiện chịu khuất với chú nhà nho hèn mọn
Đài cao trăm thước ở Lĩnh Biểu đã nghiêng đổ
Ngôi mộ cổ nghìn năm ở Phiên Ngung đã mất
Thương cho đời này theo đời kia thay đổi nhau
Nhưng không bằng ông lão Man Di

Sở Tần cường bạo diệt vong
Ung dung lên bá phương nam an nhàn
Sức thừa để chiếm ngôi vương
Nén lòng chịu khuất đành nhường kẻ ngu
Đài cao Lĩnh Biểu mây mù
Nghìn năm mộ cổ Phiên Ngu tiêu rồi
Bao nhiêu triều đại đổi đời
Man Di lão đại chẳng người nào so

Sở Tần cường bạo nối nhau tan
Lên bá phương Nam hưởng thú nhàn
Thừa sức xưng oai ngôi đế chúa
Nén lòng chịu khuất chú nho quèn
Đài cao Lĩnh Biểu nay nghiêng ngã
Mộ cổ Phiên Ngu cũng lụi tàn
Triều đại đổi đời bao luyến tiếc
Man Di Lão Đại chẳng ai bằng

Tần Sở bạo tàn tiếp nối tan
Ung dung nhũn nhặn bá phương nam
Xưng oai thừa sức ngôi hoàng đế
Chịu khuất cam tâm bậc sĩ quèn
Lĩnh Biểu đài cao nay ngã đổ
Phiên Ngu mộ cổ cũng điêu tàn
Thương thay triều đại theo nhau diệt
Chẳng sánh Man Di Lão Đại khôn

Bắc hành tạp lục - Dương Phi cố lý


42. Dương Phi cố lý 

Sơn vân tước lược ngạn hoa minh,
Kiến thuyết Dương Phi thử địa sinh.
Tự thị cử triều không lập trượng ,
Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành.
Tiêu tiêu Nam Nội bồng cao biến,
Mịch mịch Tây Giao khâu lũng bình.
Lang tạ tàn hồng vô mịch xứ,
Đông phong thành hạ bất thăng tình.

楊妃故里
山雲削略岸花明
見說楊妃此地生
自是舉朝空立仗
枉教千古罪傾城
簫簫南內蓬篙遍
寞寞西郊丘隴平
狼藉殘紅無覓處
東風城下不勝情

Dịch nghĩa
Quê cũ Dương Quí Phi
Núi mây thưa thớt hoa rực rỡ bên bờ,
Nghe nói đây là quê sinh đẻ của Dương Phi.
Chỉ tại triều đình như tuồng phỗng đá,
Khiến xui ngàn năm cứ đổ tội sắc nghiêng thành.
Trong cung Nam buồn cỏ bồng mọc khắp lối,
Vắng vẻ Tây Giao, gò đống phẳng bằng.
Phấn lạt hương phai biết tìm đâu,
Dưới thành gió đông gợi nhiều cảm thương.

Rực xinh hoa bến mây ngàn
Dương Phi ngày trước sinh thành nơi đây
Triều đình một đám si ngây
Nghiêng thành sắc đẹp tội ai ngàn đời
Phế cung cỏ mọc rối bời
Nấm mồ chôn cạn nay thời vắng tanh
Tìm đâu tơi tả hoa tàn
Dưới thành gío lạnh bẽ bàng không nguôi

Mây ngàn thưa thớt khóm hoa xinh
Nghe nói Dương Phi chốn đó sinh
Chỉ tại trăm quan trơ phổng đá
Sao đành ngàn kiếp tội nghiêng thành
Cung nội Nam buồn bồng chắn lối
Cánh đồng Tây vắng đống gò ngang
Hương phai phấn lạt tìm đâu thấy
Gió lạnh dưới đê chẳng thấu tình

27 tháng 7, 2012

Bắc hành tạp lục - Thương Ngô Trúc chi ca

27. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 01 

Quế Lâm tân lạo dũng trường xuyên,
Thủy ốc bằng cao dục thướng thiên.
Ngọ hậu đông phong xuy cấp cánh,
Vãng lai vô số Quảng đông thuyền.

蒼梧竹枝歌其一 `
桂林新潦涌長川
水屋憑高欲上天
午後東風吹更急
往來無數廣東船
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 01
Nước lụt Quế Lâm thật mênh mông,
Trời gần bè thả cao trên sông.
Quá trưa thêm mạnh gió đông,
Lưu hành vô số thuyền bè Quảng Đông

Quế Lâm lụt mới ngập tràn
Nhà bè lũ xiết nước dâng tận trời
Quá trưa gió thổi ngút ngời
Quảng Đông vô kể ngược xuôi những thuyền

Quế Lâm nước lụt thật mênh mông
Dâng thẳng nhà bè dọc bến sông
Quá ngọ gió đông thêm thổi mạnh
Thuyền bè xứ Quảng lại càng đông

28. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 02


Văn Xương các thượng dạ đăng minh.
Nhất phiến hàn quang xạ thuỷ tinh.
Lai vãng du thuyền bất tri số.
Mãn giang tề phát trạo ca thanh. 
蒼梧竹枝歌其二
文昌閣上夜燈明
一片寒光射水晶
來往遊船不知數
滿江齊發棹哥聲
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 02
Ban đêm đèn sáng ngời trên gác Văn Xương,
Một màng nước lạnh chiếu sáng như gương.
Thuyền bè qua lại nhiều vô kể,
Khắp sông vang vọng lời ca chèo thuyền.

Văn Xương đèn sáng thâu đêm
Chiếu lên mặt nước lạnh lùng thủy tinh
Lại qua vô số con thuyền
Chèo đua ca hát tưng bừng trên sông

Thâu đêm đèn sáng gác Văn Xương
Nước lạnh chiếu lên sáng tựa gương
Qua lại thuyền bè vô số kể
Khắp sông ầm ĩ tiếng ca vang

29. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 03


Vũ tự bàng đà vân tự si,
Cửu Nghi  sơn sắc vọng trung nghi.
Ngu Vương  táng xứ vô khâu mộ,
Thuỷ diện huyền thanh tự nhị phi .

蒼梧竹枝歌其三
雨自滂沱雲自癡
九疑山色望中疑
虞王葬處無丘墓
水面絃聲似二妃
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 03
Mưa rơi tầm tã, mây lững lờ
Núi Cửu Nghi nhạt nhòa trong xa mờ.
Nơi chôn vua Thuấn không có mộ
Tiếng đàn trên mặt nước nghe của hai bà phi

Thẫn thờ tầm tã mây mưa
Cửu Nghi núi đá cũng mờ sắc xanh
Vua Ngu chết chẳng mộ phần
Hai phi sóng nước tiếng đàn còn vương

Mây lững lờ mưa rơi tầm tã
Núi Cửu Nghi sắc đá mờ xa
Vua Ngu mộ chẳng tìm ra
Tiếng đàn trên nước tựa là hai phi

Mây lững lờ trôi mưa nặng rơi
Cửu Nghi sắc đá nhạt chân trời
Vua Ngu mất xác không còn mộ
Điệu nhạc hai phi mặt sóng trôi

30. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 04


Thanh sơn lâu các nhất tằng tằng,
Trú kiến yên hà dạ kiến đăng.
Cổ tự vô danh nan vấn tấn,
Bạch vân thâm xứ ngọa sơn tăng.

蒼梧竹枝歌其四
青山樓閣一層層
晝見煙霞夜見燈
古寺無名難問訊
白雲深處臥山僧
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 04
Núi xanh, lầu cao hàng lớp lớp,
Ngày thấy mây khói, tối ánh đèn.
Chùa cũ không tên biết hỏi ai,
Trong lớp mây trắng nhà sư nằm.
 

Núi xanh lầu gác chập chồng
Ngày nhìn mây khói đêm trông đèn cầy
Chùa xưa nào biết hỏi ai
Rừng sâu mây trắng một hai thầy chùa

Núi xanh lầu gác lớp chồng chồng
Tối thấy đèn cầy sáng khói xông
Chùa cũ không tên nhưng khó hỏi
Rừng sâu mây trắng ẩn sư ông

31.Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 05


Lãng hoa song trạo tật như phi,
Khán bãi long châu để mộ qui
Sinh diện tương phùng vô úy tị,
Hồ tê vi lộ tiếu Nam di.

蒼梧竹枝歌其五
浪花雙棹疾如飛
看罷龍舟抵暮歸
生面相逢無畏避
瓠犀微露笑南夷
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 05
Đôi chèo thuyền quẩy sóng lướt như bay,
Xem cuộc đua thuyền rồng đến chiều về.
Gặp người lạ chẳng hề e ngại,
Hé răng hạt bầu cười thấy người khách phương Nam.
   
Đôi chèo rẽ sóng như bay
Đua thuyền xem hội tối ngay mới về
Gặp nhau người lạ không e
Hạt bầu răng trắng người quê mỉm cười

Đôi chèo rẽ sóng lướt như bay
Xem hội thuyền đua đến tối ngày
Mặt lạ gặp nhau không tránh né
Mỉm cười răng khểnh liếc đưa mày

32. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 06

Nhất thanh liệt trúc tán lưu hoàng
Kinh khởi sa đinh nhạn sổ hàng
Thiên tế giao chiêm qui khứ xứ
Thương Ngô bắc thướng định Hành Dương . 
蒼梧竹枝歌其六
一聲裂竹散硫磺
驚起沙汀鴈數行
天際遙瞻歸去處
蒼梧北上定衡陽
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 06
Một tiếng pháo nổ, khói lưu hoàng bốc ra
Đàn nhạn kinh hãi từ bãi cát bay lên
Nhìn trời xem bay về phương nào
Từ Thương Ngô bay lên Bắc đoán là đến Hành Dương.

Pháo tung khét thuốc lưu hoàng
Hoảng kinh đàn nhạn sổ hàng bay cao
Vọng trông khuất nẻo xứ nào
Thương Ngô phương bắc ắt vào Hành Dương

Nổ vang pháo trúc khói lưu hoàng
Kinh hoảng nhạn bay bãi cát hoang
Khuất nẻo chân trời mây lãng đãng
Thương Ngô phương bắc ắt Hành Dương

33. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 07

Trường giang ba lãng diểu vô nhai,
Tam ngũ du thuyền sấn dạ khai.
Vô nguyệt vô đăng khán bất kiến,
Tỳ bà thanh tự thuỷ trung lai.

蒼梧竹枝歌其七
長江波浪渺無涯
三五遊船趁夜開
無月無燈看不見
琵琶聲自水中來
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 07
Sông lớn sóng nước chẳng thấy bờ,
Ba năm thuyền lướt trong đêm.
Không trăng không đèn nhìn chẳng rõ,
Tiếng tì bà đâu đó vẳng trên sông.

Nước to sóng lớn mênh mông
Năm ba thuyền bé giữa dòng ban đêm
Không trăng lại chẳng có đèn
Tỳ bà văng vẳng tiếng đàn trên sông

Nước to sóng lớn trải mênh mông
Dăm chiếc thuyền con lội giữa dòng
Không ánh trăng đèn nhìn chẳng rõ
Tỳ bà thấp thoáng vẳng trên sông

34. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 08

Kê Lung sơn tại thuỷ trung ương,
Vạn khoảnh yên ba cộng diểu mang.
Tương ước đông gia cụ chu tiếp,
Thiên phi các thượng cộng phần hương.

蒼梧竹枝歌其八
雞籠山在水中央
萬頃煙波共渺茫
相約東家具舟楫
天妃閣上共焚香
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 08
Kê Lung núi ở giữa dòng sông,
Khói sóng vạn lớp trải trập trùng.
Đã hẹn chủ thuyền cùng sửa soạn,
Viếng gác Thiên phi cùng thắp nhang

Kê Lung núi ở giữa dòng
Mênh mông con nước chập chùng sóng đưa
Hẹn cùng bác lái ban trưa
Để lên Thiên Các cùng nhau cúng trời

Ngay giữa dòng sông núi Kê Lung
Khói mờ lớp lớp sóng muôn trùng
Chủ thuyền có hẹn cùng đi lễ
Trên gác Thiên phi thắp nén nhang

Kê Lung ngọn núi giữa dòng sông
Vạn lớp khói mây trải chập chùng
Có hẹn chủ thuyền cùng sửa lễ
Thiên Phi viếng gác thắp cây nhang

35. Thương ngô trúc chi ca kỳ 09

Thành bắc sơn lựu hồng cánh hồng,
Thành nam thùy liễu bất câm phong.
Nhứ phi hoa lạc vô nhân quản,
Nhất dạ tuỳ lưu đáo Quảng Đông.

蒼梧竹枝歌其九
城北山榴紅更紅
城南垂柳不禁風
絮飛花落無人管
一夜隨流到廣東
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 09
Phía bắc thành lựu núi hồng thêm hồng,
Nơi thành nam liễu rủ gió thổi tung.
Liễu bay hoa rơi rụng không người biết,
Một đêm xuôi dòng ghé Quảng Đông.
   

Bắc thành màu lựu thêm hồng
Thành nam rặng liễu gió tung rối bời
Hoa bay tơi tả rụng rơi
Quảng Đông một buổi thuyền bơi theo dòng

Phía bắc lựu hoang lại thắm hồng
Phía nam liễu rũ gió bay tung
Tơ rơi hoa rụng không ai biết
Một tối theo dòng ghé Quảng Đông

36. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 10

Ban trúc  yên đồng xích nhị trường,
Trà âu phù động Vũ Tiền hương.
Nhất lai nhất vãng nhân vô vấn,
Độc ỷ thuyền song chính hận lang.
蒼梧竹枝歌其十
斑竹煙筒尺二長
茶甌浮動雨前香
一來一往無人問
獨倚船窗正恨郎
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô kỳ 10
Ống điếu trúc đốm dài thước hai,
Trà Vũ Tiền một bình thơm ngát.
Thấy người qua lại chẳng hỏi chuyện,
Tựa song cửa nàng kia trông như giận chồng.

Thước hai ống điếu trúc bông
Vũ Tiền trà đậm hương nồng khói bay
Người qua kẻ lại nào hay
Trên thuyền tựa cửa đúng ngay giận chồng

Ống điếu trúc bông dài thước hai
Vũ Tiền trà đậm ngát hương bay
Thấy người qua lại không để ý
Tựa cửa cô kia chồng vẫn cay

37. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 1

Thập chích long châu nhất tự trần,
Xao la qua cổ điếu Linh quân .
Hoàng hoa khuê nữ tham hành lạc,
Khiêu xuất thuyền đầu bất tị nhân. 

蒼梧竹枝歌其十
斑竹煙筒尺二長
茶甌浮動雨前香
一來一往無人問
獨倚船窗正恨郎
 
Dịch nghĩa
Điệu caTrúc chi đất Thương Ngô bài 11
Mười chiếc thuyền rồng bày hàng chữ nhất
Khua thanh la đánh trống cúng Linh Quân
Cô gái cài hoa cúc mải vui
Nhảy lên đầu thuyền không tránh người

Thuyền rồng mười chiếc thẳng hàng
Linh quân cúng tế ầm ầm trống chiêng
Mải vui cô gái vô duyên
Đầu thuyền nhảy tọt chẳng kiêng gì người

Mười chiếc thuyền hoa thẳng một hàng
Khua chiêng gióng trống cúng Linh Quân
Cô nàng cài cúc say mê ngó
Nhảy tọt đầu thuyền chẳng nể nang

38. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 12

Đường chu lan trạo nhật tân phân,
Vãng vãng lai lai bất yếm tần.
Ký thủ hoạ thuyền tam ngũ chích,
Tối phong lưu thị bố y nhân. 
蒼梧竹枝歌其十二
棠舟蘭棹日繽紛
往往來來不厭頻
記取畫船三五隻
最風流是布衣人
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 12
Thuyền gỗ đường, chèo gỗ lan nhộn nhịp cả ngày,
Đi đi lại lại không nghỉ ngơi.
Tay viết vẽ xuống ba năm chiếc thuyền,
Lịch lãm nhất là người mặc áo vải.

Thuyền gỗ đường chèo gỗ lan
Đi qua đi lại cơ man dập dình
Năm ba thuyền vẽ lại hình
Những người áo vải thật tình phong lưu

Thuyền gỗ, chèo lan mãi dập dình
Đi qua đi lại chẳng làm thinh
Tiện tay vẽ xuống thuyền vài chiếc
Áo vải dân chơi rất thật tình

Chèo lan, thuyền gỗ nhộn trên sông
Đi lại đi qua thật rất đông
Tay vẽ thuyền nan năm ba chiếc
Dân chơi áo vải rõ oai phong

39. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 13

Duyên thành dương liễu bất thăng nhu,
Diệp diệp ti ti vị cập thu
Hảo hướng phong tiền khán dao duệ,
Tối điên cuồng xứ tối phong lưu 
蒼梧竹枝歌其十三
沿城楊柳不勝柔,
葉葉絲絲未及秋。
好向風前看搖洩,
最癲狂處最風流。
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 13
Cây liễu dọc thành mềm mại vô cùng
Lá và tơ chưa vào thu
Thích nhìn chúng lay trước gió
Lúc chúng quay cuồng nhất là lúc chúng cao đẹp nhất

Thướt tha cây liễu bên thành
Chúa thu chưa đến lá xanh mượt mà
Đong đưa ngọn gío xa xa
Quay cuồng điệu múa thật là xinh tươi

Cây liễu ven thành rũ ước mơ
Chúa thu chưa đến lá xanh mờ
Thướt tha theo gió ưa nhìn ngắm
Cuồng loạn xinh tươi mái tóc tơ

Thướt tha cây liễu rũ ven thành
Tơ lá chờ thu vẫn mướt xanh
Ngơ ngẩn đứng nhìn lay trước gió
Càng rung cuồng loạn lại càng xinh

40. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 14

Trường quần tập tập duệ khinh tiêu,
Vân kế nga nga ủng thúy kiều.
Doanh đắc quỷ đầu mãn nang khẩu,
Bằng quân vô phúc dã năng tiêu.

蒼梧竹枝歌其十四
長裙習習曳輕綃
雲髻峨峨擁翠翹
贏得鬼頭滿囊口
憑君無福也能消
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 14
Quần là dài thướt tha áo lụa mỏng,
Tóc bới cao, lông chim thúy điểm trâm cài.
Cứ rằng có tiền bạc đầy túi,
Thì dù không có phúc vẫn có duyên với họ.

Thướt tha áo lụa quần là
Trâm cài trên mái tóc gà búi cao
Trong tay sẵn có tiền bao
Không duyên cũng được vui vầy với ai

Áo lụa quần là dáng thướt tha
Trâm cài trên mái tóc đuôi gà
Trong tay sẵn có tiền đầy túi
Vô phúc tình duyên vẫn mặn mà

Quần là áo lụa dáng kiêu sa
Lông thúy trâm cài tóc búi gà
Sẵn có tiền bao đầy túi nặng
Không duyên tình vẫn cứ đậm đà

41. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 15

Thuyền vĩ đăng lung tứ xích can,
Thuyền đầu hoạ hổ hắc ban ban.
Bố kỳ thượng tả "Tuần hà" tự,
Chỉ cật hoa thuyền bất cật gian.

蒼梧竹枝歌其十五
船尾燈籠四尺竿,
船頭畫虎黑斑斑。
布旗上冩巡河字,
只詰花船不詰姦。
 
Dịch nghĩa
Điệu caTrúc chi đất Thương Ngô bài 15
Đuôi thuyền có đèn lồng cán dài bốn thước,
Mũi thuyền có hình vẽ hổ vằn lông đen.
Cờ trưng cao đề hai chữ "Tuần hà"
Tuần viên chỉ chặn hỏi thuyền hoa, còn thuyền gian thì mặc kệ.

Đèn dài bốn thước đuôi thuyền
Đầu thuyền vẽ cọp lông đen mượt mà
Trên cờ treo chữ “tuần hà”
Thuyền gian chẳng ngó thuyền hoa xét hoài

Đèn lồng bốn thước gắn đuôi thuyền
Đầu vẽ phùng mang chú cọp đen
Giương chữ “tuần hà” cờ lộng gió
Thuyền hoa chặn hỏi mặc thuyền gian

Bốn thước đèn lồng gắn chót đuôi
Đầu thuyền vẽ cọp mắt sáng ngời
Giương cờ đề chữ “Tuần Hà” rõ
Chuyên chặn thuyền hoa thật tức cười

Bắc hành tạp lục - Ngũ nguyệt quan cạnh độ


26. Ngũ nguyệt quan cạnh độ 

Hoài Vương qui táng, Trương Nghi tử
Sở quốc từ nhân  ký bội lan 
Thiên cổ chiêu hồn chung bất phản
Mãn giang tranh cạnh thái vô đoan
Yên ba diểu diểu không bi oán
La cổ niên niên tự tiếu hoan 
Hồn nhược qui lai dã vô thác
Long xà quỉ vực biến nhân gian.

五月觀競渡
懷王歸葬張儀死
楚國詞人記佩蘭
天古招魂終不返
滿江爭競太無端
煙波渺渺空悲怨
羅鼓年年自笑歡
魂若歸來也無托
龍蛇鬼蜮遍人間
 
Dịch nghĩa
Tháng năm xem đua thuyền
Hoài Vương chết, đưa hài cốt về mai táng, Trương Nghi cũng chết.
Nhớ nhà thơ nước Sở đeo chùm hoa lan.
Ngàn năm gọi hồn, hồn vẫn không về.
Thuyền đua đầy sông, nào có ý nghĩa gì đâu!
Nhìn khói sóng mịt mù mà đau thương oán giận.
Hàng năm chiêng trống vẫn cứ bày trò vui như thế này đây.
Vả chăng hồn ông có về cũng không biết nương tựa vào đâu.
Khắp nhân gian nơi nơi đầy dẫy rắn rồng, quỷ quái.

Hoài Vương cùng với Trương Nghi
Kẻ thì đưa xác nguời thì chết ngay
Khuất Nguyên nước Sở thảm thay
Gọi hồn bao thủa vẫn chưa thấy về
Khói mây sầu thảm não nề
Trên sông đầy khắp thuyền bè thi đua
Hàng năm chiêng vỗ trống khua
Thế gian đầy quỷ chỗ đâu hồn về

Hoài Vương chết xứ Trương Nghi tàn
Thương nhớ nhà thơ Sở thích lan
Bao thủa gọi hồn chưa trở lại
Đầy sông thuyền lướt khéo vô duyên
Mịt mù khói sóng khơi sầu thảm
Ầm ĩ trống chiêng cứ nhộn tràn
Ví thử hồn về không chỗ dựa
Rắn rồng quỷ quái ngập nhân gian