24 tháng 12, 2016

Tết Đinh Dậu

Năm đến chào xuân khỉ đón gà
Mới vừa hừng sáng gáy hoan ca
Chúc toàn thế giới vang lời nhạc
Mừng khắp nhân gian hưởng thái hòa
Hạnh đào xoài đủ tròn mơ ước
Phúc đáo hương thơm trọn cả nhà
An trú thường hằng trong chánh niệm
Khang trang tâm cảnh nở muôn hoa

KT (24/12/2016)

2017-dinh-dau-4

images (4)

20 tháng 12, 2016

Chương 1: Bản thể của đạo

THIÊN 1: ĐẠO

Chương 1: Bản thể của đạo

1. Đạo bàn được không là đạo thật . Tên gọi được không là tên thật

2. Không là gốc của trời đất. Có là mẹ của vạn vật

3. Thế nên nương không, để thấy thể của nó. Nương có, để thấy dụng của nó.

4. Có và không tuy khác tên nhưng cùng gốc, cả hai đều huyền nhiệm. Hai tầng huyền nhiệm, là cửa vào những kỳ diệu.

第-章

體道

1 道可道,非常道。名可名,非常名。

2 無,名天地之始﹔有,名萬物之母。

3 故常無,欲以觀其妙;常有,欲以觀其徼。

4 此兩者,同出而異名,同謂之玄。玄之又玄,眾妙之門。

Thể đạo

1. Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường danh.

2. Vô, danh thiên địa chi thỉ; hữu, danh vạn vật chi mẫu.

3. Cố thường vô, dục dĩ quan kỳ diệu; thường hữu, dục dĩ quan kỳ kiếu.

4. Thử lưỡng giả, đồng xuất nhi dị danh, đồng vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn

Đạo Đức Kinh

Lời giới thiệu

Lâm Ngữ Đường trong The Book of Tao mô tả về cuốn Đạo Đức Kinh như sau:

Nếu có một cuốn sách đáng đọc nhất trong toàn bộ nền văn học đông phương – theo ý tôi – thì đó là cuốn Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Nó là một trong những cuốn sách sâu sắc nhất của triết học thế giới… sâu sắc và rõ ràng, huyền diệu và thực tế.

Nhà văn hào pháp René Bertrand cũng hết lời ca tụng Lão Tử rằng:

Ông chỉ viết có một cuốn sách rất ngắn gọn là Đạo Đức Kinh. Những dòng chữ trong cuốn sách đó chứa đựng tất cả sự khôn ngoan trên quả đất này.

Người Trung Hoa còn dựng ra cả một cõi trời để tôn vinh tác giả của Đạo Đức Kinh và phong ông làm Thái Thượng Lão Quân để làm giáo chủ thiên giới đó.

Tại sao một quyển sách chứa hơn 5000 chữ lại khiến cả đông cũng như tây hết lòng ca tụng như vậy và Lão Tử là ai mà lại có thể thành tựu được công đức to lớn như vậy chỉ dựa vào một cuốn sách nhỏ bé.

Đầu tiên xin mạn phép bàn về quyến kinh độc đáo này. Theo truyền thuyết thì vào năm 600 TCN Lão Tử bỏ việc đời đi ở ẩn. Đi ngang qua Hàm Cốc ông gặp Doãn Hỷ đang làm quan trấn giữ ải này. Do khâm phục đạo hạnh của Lão Tử nên Doãn Hỷ năn nỉ mời ông ở lại, nói: “Nếu ngài quyết đi ẩn cư xin vì tôi để lại một bộ sách”. Thể theo yêu cầu, Lão Tử đã ở lại Hàm Cốc để trước tác bộ Đạo Đức Kinh (ĐĐK) và nhắn nhủ Doãn Hỷ cứ theo kinh sách mà tu luyện thì sẽ đắc đạo.

Về cấu trúc, ĐĐK gồm cả thảy 81 chương với hơn 5000 chữ chia thành 2 thiên.

· Thiên đầu: gồm 37 chương khởi đầu bằng câu: “Đạo khả đạo phi thường Đạo”. Thiên này bàn về Đạo nên thường gọi là Đạo Kinh

· Thiên sau gồm 44 chương khởi đầu bằng câu: “Thượng đức bất đức thị dĩ hữu đức”. Thiện này luận bàn về Đức nên thường gọi là Đức Kinh

Riêng tác giả của bộ kinh trên là Lão Tử. Ông có ảnh hưởng to lớn trong nền triết học Trung Hoa và được công nhận là khai tổ của Đạo Giáo. Tuy nhiên cuộc đời của Lão Tử được biết rất ít và hầu như ngập tràn trong huyền thoại.

Nơi sinh của ông thường được cho là huyện Khổ nước Sở nay là Lộc Ấp thuộc tỉnh Hà Nam. Thời gian ông ra đời hiện đang nằm trong vòng tranh cãi. Nhiều học giả hiện đại cho rằng ông sống ở thế kỷ 4 TCN vào thời Chiến quốc đồng thời với nhóm Bách gia chư tử. Tuy nhiên, theo truyền thuyết ông sống ở thế kỷ thứ 6 TCN đồng thời với Khổng Tử nhưng sinh trước không Tử.

Tư Mã Thiên trong cuốn Sử Ký nổi tiếng của ông cho biết Lão Tử là người cùng thời với Khổng Tử nhưng lớn tuổi hơn, làm quan quản thủ thư viện cho nhà Chu. Ông có tả lại cuộc gặp gỡ lý thú giửa hai tay đại triết gia này như sau theo lời dịch của Nguyễn Duy Cần:

Khổng Tử đến Châu, hỏi Lễ. Lão Tử nói: “Lời nói của ông là lời nói của những kẻ xương tàn cốt rụi. Vả, người quân tử đắc thời thì đi xe, không đắc thời thì tay vòn nón lá mà đi chân. Ta nghe rằng, kẻ buôn giỏi khéo giữ của quí như không có gì, người quân tử đức thạnh, dung mạo dường như kẻ ngu. Họ khác với cái kiêu khí và đa dục của ông, sắc thái và dâm chi ấy không ích gì cho thân ông cả. Tôi sở dĩ bảo chô ông biết có bấy nhiêu thôi.” Khổng Tử về bảo đệ tử: “Chim, ta biết nó bay thế nào; cá, ta biết nó lội làm sao; thú ta biết nó chạy cách nào. Thú chạy thì ta có lưới bắt nó; cá lội thì ta có dây câu ví nó; chim bay thì ta có bẫy gài nó. Chí như con rồng, thì ta không biết nó theo mây theo gió mà bay lượn như thế nào. Nay ta thấy Lão Tử như con rồng!”

12 tháng 12, 2016

Đường luật

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Thơ Đường luật hay Thơ luật Đường là thể thơ Đường cách luật xuất hiện từ đời nhà Đường, Trung Quốc. Là một trong những dạng thơ Đường bên cạnh cổ thể (cổ phong), từ, thơ Đường luật đã phát triển mạnh mẽ tại chính quê hương của thể loại và lan tỏa ra nhiều quốc gia lân bang với tư cách thể loại tiêu biểu nhất của thơ Đường nói riêng và tinh hoa thi ca Trung Hoa nói chung. Thơ Đường luật còn được gọi với tên thơ cận thể để đối lập với thơ cổ thể vốn không theo cách luật ấy.

Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở 5 điều sau: Luật, Niêm, Vần, Đối và Bố cục. Về hình thức, thơ Đường luật có các dạng "thất ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là dạng chuẩn; biến thể có các dạng: "thất ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu bảy chữ), "ngũ ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu năm chữ), "ngũ ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu năm chữ) cũng như các dạng ít phổ biến khác. Người Việt Nam cũng tuân thủ hoàn toàn các quy tắc này.

Thơ Đường luật tại một số quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Vì văn chương chính thống, giáo dục và hệ thống khoa cử thời trung đại đều sử dụng tiếng Hán, nên từ lâu người Việt Nam đã sáng tác thơ văn bằng tiếng Hán trong đó có thơ theo luật Đường.

Nguyễn Thuyên là người đầu tiên đưa tiếng Việt vào thơ văn, đặt ra thể thơ Hàn luật, là sự kết hợp thơ Đường luật với các thể thơ dân tộc Việt.

Thể loại thơ này của Việt Nam kéo dài từ thời nhà Trần cho đến nửa đầu thế kỷ 20. Kể từ phong trào Thơ Mới trở đi, số người trong nước làm luật thi đã bị giảm đi đáng kể.

Nhật Bản[sửa | sửa mã nguồn]

Khoảng thế kỷ thứ 5 chữ Hán truyền từ Trung Hoa tới Nhật. Năm 593 thái tử Shotoku (Thánh Đức) nhiếp chính, đã ban hiến pháp “Thập thất điều”, gửi nhiều phái đoàn sang nhà Đường du học. Năm 710 Nữ hoàng Genmei thiên đô về Nara, đặt tên là Heijo-kyo (Bình Thành Kinh). Năm 794 Thiên hoàng Kammu thiên đô về Heian và lập kinh đô (Heian-kyo, Bình An Kinh). Đây là thời kỳ người Nhật mô phỏng Trung Hoa thời nhà Đường toàn diện từ kiến trúc đô thành (theo mô hình kinh đô Tràng An nhà Đường và thành Lạc Dươngtriều Bắc Ngụy) đến nghi thức, văn hóa, và thời kỳ này kéo dài ít nhất tính đến thời điểm Nhật Bản ngừng phái sứ giả sang giao lưu với đại lục năm 894. Thơ văn chữ Hán trở thành văn học cửa công và đồng nghĩa với sinh hoạt cung đình.

Thành tựu đáng chú ý đầu tiên của người Nhật đối với thể loại thơ Đường luật có thể kể đến Kaifuso (Hoài phong tảo, 751). Thi tập này bao gồm gồm 120 bài thơ chữ Hán, quy tụ các nhà thơ tiêu biểu từ hoàng đế, thành viên của hoàng tộc, quý tộc, tăng lữ cho đến những Hoa kiều nhập quốc tịch Nhật. Sáng tác đa phần được thực hiện từ thế kỷ 7 và 8, và hình thức thơ chủ yếu là thơ ngũ ngôn, tứ tuyệt, bát cú.

Luật[sửa | sửa mã nguồn]

Điều căn bản của luật thơ Đường luật là đối, đó là hai nguyên tắc đối âm và đối ý, nghĩa là lần lượt những chữ thứ nhất, thứ 2, thứ 3,... của câu trên phải đối với các chữ thứ nhất, thứ 2, thứ 3,... của câu dưới cả về âm và ý. Nhưng làm được như thế thì rất khó, vì vậy người ta quy ước nhất tam ngũ bất luật (chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm không cần theo luật).

Đối âm (Luật bằng trắc)[sửa | sửa mã nguồn]

Luật thơ Đường căn cứ trên thanh bằngthanh trắc, và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu huyền hay không dấu; thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng. Có người chia thành sáu thanh trắc trong đó dấu sắc (') và dấu nặng (.) chia thành mỗi tiếng có hai thanh trắc nhập và trắc khứ.

Nếu chữ thứ hai của câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có "luật bằng"; nếu chữ thứ 2 câu đầu dùng thanh trắc thì gọi là bài có "luật trắc". Trong một câu, chữ thứ 2 và chữ thứ 6 phải giống nhau về thanh điệu, đồng thời chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia. Ví dụ, nếu chữ thứ 2 và 6 là thanh bằng thì chữ thứ 4 phải dùng thanh trắc, hay ngược lại. Nếu một câu thơ Đường luật mà không theo quy định này thì được gọi "thất luật".

Ví dụ: xét câu "Bước tới đèo Ngang bóng xế tà" trong bài Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, có các chữ "tới" (thứ 2) và "xế" (thứ 6) giống nhau vì đều là thanh trắc còn chữ "Ngang" là thanh bằng thì đó là bài thất ngôn bát cú luật trắc.

Luật bằng trắc trong thể Thất ngôn tứ tuyệtThất ngôn bát cú có thể nôm na liệt kê như sau, nếu chỉ vần bằng chữ "B", vần trắc bằng chứ "T", những vần không có luật để trống, thì luật trong các chữ thứ 2-4-6-7 có thể viết là:

1. Luật vần bằng
  • Thất ngôn tứ tuyệt

Câu số
Vần
Ví dụ: Mời trầu1 của Hồ Xuân Hương

1
B
T
B
B
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

2
T
B
T
B
Này của Xuân Hương mới quệt rồi

3
T
B
T
T
phải duyên nhau thì thắm lại

4
B
T
B
B
Đừng xanh như , bạc như vôi

Chữ thứ
1
2
3
4
5
6
7

  • Thất ngôn bát cú

Câu số
Vần
Ví dụ: Thương vợ1 của Trần Tế Xương

1
B
T
B
B
Quanh năm buôn bánmom sông

2
T
B
T
B
Nuôi đủ năm con với một chồng

3
T
B
T
T
Lặn lội thân khi quãng vắng

4
B
T
B
B
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

5
B
T
B
T
Một duyên hai nợ âu đành phận

6
T
B
T
B
Năm nắng mười mưa dám quản công.

7
T
B
T
T
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!

8
B
T
B
B
chồng hờ hững cũng như không!

Chữ thứ
1
2
3
4
5
6
7

2. Luật vần trắc
  • Thất ngôn tứ tuyệt

Câu số
Vần
Ví dụ: Phong Kiều dạ bạc (楓橋夜泊)
của Trương Kế (张继 Zhang Jì)
Phiên âm Hán-Việt

1
T
B
T
B
月落烏啼霜滿天
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

2
B
T
B
B
江楓魚火對愁眠
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

3
B
T
B
T
姑蘇城外寒山寺
thành ngoại Hàn San tự

4
T
B
T
B
夜半鐘聲到客船
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Chữ thứ
1
2
3
4
5
6
7

Bản dịch tiếng Việt của Tản Đà (chuyển thể thành lục bát):
Đỗ thuyền đêm ở bến Phong Kiều
Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài cây bãi sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San
  • Thất ngôn bát cú

Câu số
Vần
Ví dụ: Nhớ bạn phương trời1 của Trần Tế Xương

1
T
B
T
B
Ta nhớ người xa cách núi sông

2
B
T
B
B
Người xa, xa lắm nhớ ta không

3
B
T
B
T
Sao đương vui vẻ ra buồn bã!

4
T
B
T
B
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng

5
T
B
T
T
Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng

6
B
T
B
B
Khi riêng, riêng cả đến tình chung

7
B
T
B
T
Tương lọ phảitrai gái,

8
T
B
T
B
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng

Chữ thứ
1
2
3
4
5
6
7

Đối ý[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường luật là ý nghĩa của hai câu 3 và 4 phải "đối" nhau và hai câu 5, 6 cũng "đối" nhau. Đối thường được hiểu là sự tương phản (về nghĩa kể cả từ đơn, từ ghép, từ láy) bao gồm cả sự tương đương trong cách dùng các từ ngữ. Đối chữ: danh từ đối danh từ, động từ đối động từ. Đối cảnh: trên đối dưới, cảnh động đối cảnh tĩnh... Nếu một bài thơ Đường luật mà các câu 3, 4 không đối nhau, các câu 5, 6 không đối nhau thì bị gọi "thất đối".

Ví dụ: hai câu 3, 4 trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:

Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà,2

"Lom khom" đối với "lác đác" (hình thể và số lượng - thực ra hai câu này chưa phải đối hoàn chỉnh), "dưới núi" đối với "bên sông" (vị trí địa hình), song nếu nối hình ảnh hai câu trên "lom khom dưới núi" và "lác đác bên sông" thì vì một câu diễn tả về cảnh động, còn một câu diễn tả về cảnh tĩnh, nên sự đối lập có thể chấp nhận được. Một điểm nên chú ý là cách dùng từ láy âm "lom khom" chỉ dáng người của câu trên, và "lác đác" chỉ số lượng của câu dưới. Hai vế tiếp: "tiều vài chú" đối với "chợ mấy nhà" (đối lập về số lượng và tĩnh/động). Sự đối lập của hai vế cuối có thể coi là hoàn chỉnh. Xin xem thêm về thơ đối hoặc Câu đối Việt Nam để hiểu thêm về luật đối trong thơ.

Nhị tứ lục phân minh (Câu 2,4,6 phải đối ý)

Niêm[sửa | sửa mã nguồn]

Các câu trong một bài thơ Đường luật giống nhau về luật thì được gọi là "những câu niêm với nhau" (niêm = giữ cứng, ở đây được hiểu là giữ giống nhau về luật). Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì trong cả hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Ở những câu theo nguyên tắc là cần phải niêm, nếu tác giả sơ suất mà làm thành không niêm thì bài đó bị gọi là "thất niêm".

Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường luật chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau:

  • câu 1 niêm với câu 8
  • câu 2 niêm với câu 3
  • câu 4 niêm với câu 5
  • câu 6 niêm với câu 7

Chẳng hạn với luật vần bằng:

  1. - B - T - B B
  2. - T - B - T B
  3. - T - B - T T
  4. - B - T - B B
  5. - B - T - B T
  6. - T - B - T B
  7. - T - B - T T
  8. - B - T - B B

Ví dụ: Xét trong bài thơ Qua đèo Ngang, hai câu thứ 2 và thứ 3:

Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú

Vần[sửa | sửa mã nguồn]

Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường luật chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là "vần với nhau". Nếu một bài thơ Đường luật mà chữ cuối của một trong các câu này không giống nhau về vần thì được gọi "thất vần".

Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là "vần chính", những chữ có vần gần giống nhau gọi là "vần thông". Hầu hết thơ Đường luật dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ.

Ví dụ: hai câu 1, 2 trong bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:

Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

hai chữ "tà" và "hoa" được xem là vần với nhau, nhưng ở đây là "vần thông" vì chỉ phát âm gần giống nhau.

Bố cục[sửa | sửa mã nguồn]

Bố cục một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật theo truyền thống thường được chia gồm 4 phần: Đề, Thực (hoặc Trạng), Luận, Kết. "Đề" gồm 2 câu đầu trong đó câu đầu tiên gọi là câu phá đề, câu thứ 2 gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý để đi vào phần sau. "Thực" gồm 2 câu tiếp theo, giải thích rõ ý đầu bài. "Luận" gồm 2 câu tiếp theo nữa, bình luận 2 câu thực. "Kết" là 2 câu cuối, kết thúc ý toàn bài, trong đó câu số 7 là câu "thúc" (hay "chuyển") và câu cuối là "hợp". Có người cho rằng Hai câu đề giới thiệu về thời gian, không gian, sự vật, sự việc. Hai câu thực trình bày, mô tả sự vật, sự việc. Hai câu luận diễn tả suy nghĩ, thái độ, cảm xúc về sự vật, hiện tượng. Hai câu kết khải quát toàn bộ nội dung bài theo hướng mở rộng và nâng cao

Thơ thất ngôn bát cú có luật lệ gò bó khó làm nhất nhưng chính điều đó lại được người xưa ưa thích nhất, thường dùng để bày tỏ tình cảm ý chí, ngâm vịnh, xướng họa... Và trong tất cả các kỳ thi xưa đều bắt thí sinh phải làm.

Tại quê hương của Đường thi cũng là nơi mà phong trào tập cổ, sáng tác thơ Đường luật rầm rộ nhất, lý luận thi pháp thơ Đường luật Trung Quốc không có khái niệm Đề, Thực, Luận, Kết mà thay bằng khái niệm đầu liên, hàm liên, cảnh liên, vĩ liên, nói ngắn gọn bằng tổ hợp bốn từ Khởi (khai), Thừa, Chuyển, Hợp. Tuy nhiên cách phân chia này cũng không khác gì cách phân Đề, Thực, Luận, Kết về mặt ý nghĩa.

Một quan niệm khác áp dụng cấu trúc 2-4-2 cho bài thơ thất ngôn bát cú. Theo đó quan niệm này đứng ở góc độ không gian-thời gian nghệ thuật để khảo sát toàn bài dựa theo logic hai câu đầu và hai câu cuối bài thơ Đường luật thường yếu tố thời gian chiếm vị trí chủ đạo, còn bốn câu giữa trật tự không gian là chủ đạo và tác giả dường như dừng lại để quan sát sự vật.

Cũng cần nhắc đến quan điểm "Cảnh-Tình" của Kim Thánh Thán khi chia bài thất ngôn bát cú thành hai phần đều nhau, theo đó bốn câu trên của bài nặng về cảnh và bốn câu dưới nặng về tình.

Hiện nay, các nhà nghiên cứu có xu hướng không cố tìm quy luật chung về bố cục để áp dụng trong hàng loạt bài thơ mà áp dụng quan điểm nghiên cứu đã có từ thời Minh mạt Thanh sơ ở Trung Hoa, quan điểm bám sát và tuân thủ cách phân chia bố cục của từng bài thơ theo mạch cảm xúc của thi nhân biểu hiện trong bài. Một ví dụ là bài thơ hết sức nổi tiếng Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan hoàn toàn có thể được phân tách theo bố cục 1/6, hoặc bài Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến có thể bố cục 6/1 hoặc 1/5/1.

Một số dạng thơ[sửa | sửa mã nguồn]

Thất ngôn bát cú[sửa | sửa mã nguồn]
Nguồn gốc thể thơ[sửa | sửa mã nguồn]

Thơ thất ngôn bát cú thật ra là loại cổ thi xuất hiện rất sớm bên Trung Quốc, đến đời Đường mới được các nhà thơ đặt lại các quy tắc cho cụ thể, rõ ràng và từ đó phát triển mạnh mẽ. Đây là loại thơ mà mỗi bài thơ thường có tám câu, mỗi câu 7 chữ, tuân theo các quy tắc hết sức chặt chẽ:

Các quy tắc[sửa | sửa mã nguồn]
  1. Dàn ý: Thông thường chia làm 4 phần: #Đề (câu 1 – 2): Câu thứ nhất là câu phá đề (mở ý cho đầu bài). Câu thứ hai là câu thừa đề (tiếp ý của phá đề để chuyển vào thân bài); Thực (câu 3 – 4): Còn gọi là cặp trạng, nhiệm vụ giải thích rõ ý chính của đầu bài;;Luận (câu 5 – 6): Phát triển rộng ý đề bài; Kết (hai câu cuối): Kết thúc ý toàn bài.
  2. Vần: Thường được gieo ở cuối câu 1, 2, 4, 6, 8.
  3. Ngắt nhịp: thường ngắt nhịp 2/2/3; 4/3.
  4. Đối: Có 2 cặp đối: Câu 3 đối với câu 4, câu 5 đối với câu 6, đối ở 3 mặt: đối thanh, đối từ loại và đối nghĩa. Nghĩa có thể đối một trong hai ý: đối tương hỗ hay đối tương phản.
  5. Niêm: Câu 1 niêm với câu 8, 2 – 3, 4 – 5, 6 – 7, tạo âm điệu và sự gắn kết giữa các câu thơ với nhau.
  6. Luật bằng trắc: thường căn cứ vào tiếng thứ hai trong câu một. Nếu tiếng thứ hai là thanh bằng ta nói bài thơ ấy viết theo luật bằng; nếu tiếng thứ hai là thanh trắc ta nói bài thơ viết theo luật trắc. Luật bằng trắc trong từng câu quy định: Nhất, tam, ngũ bất luận. Nhị, tứ, lục phân minh.

Chẳng hạn bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội Châu viết theo luật bằng

Câu 1: Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,

__________B ____T______ B___B

Câu 2: Chạy mỏi chân thì hãy ở tù,

___________T ______B ____T_B

Câu 3: Đã khách không nhà trong bốn biển,

__________T_________B_______T__T

Câu 4: Lại người có tội giữa năm châu.

___________B ____T _____B___B

Bài thơ viết Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan theo luật trắc:

Câu 1: Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

___________T______ B _______T__B

Câu 2: Cỏ cây chen lá, đá chen hoa

_________B ______T ____B___B

Câu 3: Lom khom dưới núi, tiều vài chú

___________B _______T _____B__T

Câu 4: Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

___________T _____B ______T___B

Các biệt thể của thể thơ[sửa | sửa mã nguồn]

Trong quá trình sử dụng, các nhà thơ đã sáng tạo thêm nhiều biệt thể mới của thể thơ Đường luật như:

  • Tiệt hạ: ý, lời mỗi câu thơ đều lơ lửng tuỳ người đọc suy nghĩ.
Ví dụ: Giải cờ thế
Gặp thế cờ hay muốn phá thì...
'Điều quân khiển tướng chẳng qua vì...
Trùng trùng trận cuộc song nhìn lại...
Điệp điệp quan binh nhưng nghĩ đi...
Ý chậm chí bền nên có lúc...
Trí nhanh nước sáng vẫn đôi khi...
Thú vui nhàn nhã dường như lắm...
Mất ngủ mà sao thật lạ kỳ...
(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • Yết hậu: thơ tứ tuyệt mà câu cuối chỉ có một vài chữ.
  • Thủ vĩ ngâm: câu tám lập lại y hệt câu một.
  • Vĩ tam thanh: cuối mỗi câu có từ láy ba
Ví dụ: Luyện cờ
Suốt ngày ôm sách cửa cừa cưa
Thua mấy thì thua chứa chửa chừa
Kỹ quá nên đành sương sướng sượng
Sơ nhiều chả trách đửa đừa đưa
Thế hòa sao cứ đàu đau đáu
Nước thắng can chi bứa bửa bừa
Cứ gắng, việc đời nan nán nản'
Biết bao gương sáng xửa xừa xưa
(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
Đánh giá[sửa | sửa mã nguồn]

Tuy thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật phải tuân thủ theo những nguyên tắc chặt chẽ khó có thể làm được những bài thơ hay. Tuy nhiên nhiều nhà thơ Việt Nam như Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,... đã sử dụng thể thơ Đường luật đã để lại nhiều bài thơ có giá trị và trong quá trình sử dụng đã dân tộc hoá thể thơ này về nhiều phương diện.

Thất ngôn tứ tuyệt[sửa | sửa mã nguồn]

Thực chất là một bài "thất ngôn bát cú" đem bỏ đi bốn câu đầu hoặc bốn câu cuối. Luật bằng trắc và niêm, vần... vẫn giữ nguyên, có thể bỏ luật đối ở hai câu 3, 4 hoặc 5, 6. Lúc này nó sẽ thành một bài thơ "bốn câu ba vần" mà Nguyễn Du đã nhắc trong truyện Kiều.

Ví dụ: bài thơ sau của Quách Tấn

Từ buổi thuyền đưa khách thuận dằm
Trông chừng bến cũ biệt mù tăm
Cảm thương chiếc lá bay theo gió
Riêng nhớ tình xưa ghé đến thăm
Từ trong cuộc sống vốn náo nhiệt
Trông ra thiên hạ chẳng ai hơn
Cảm mến một tình thân vĩnh cửu
Riêng một nỗi lòng gió đưa trăng
Trăng rằm nghe tiếng bạn ta nói
Trong lúc sương tàn dế im hơi
Tỉnh ra thì cũng trời đã rạng
Mong nhớ một ngày biệt mù tăm
Ngũ ngôn tứ tuyệt[sửa | sửa mã nguồn]

Thực chất là bài thất ngôn tứ tuyệt đem bỏ đi hai chữ đầu ở mỗi câu; các chữ còn lại vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần.

Ví dụ: từ bài trên mà thành

Thuyền đưa khách thuận dằm
Bến cũ biệt mù tăm
Chiếc lá bay theo gió
Tình xưa ghé đến thăm
*
Trăng rằm nghe tiếng bạn ta nói
Trong lúc sương tàn dế im hơi
Tỉnh ra thì cũng trời đã rạng
Mong nhớ một ngày biệt mù tăm
Ngũ ngôn bát cú[sửa | sửa mã nguồn]

Cũng là từ bài thất ngôn bát cú bỏ hai chữ đầu ở mỗi câu mà thành, luật bằng trắc, niêm và vần ở các chữ còn lại vẫn giữ nguyên.

Yết hậu[sửa | sửa mã nguồn]

Yết Hậu3 (yết: nghỉ; hậu: sau) là lối thơ có ba câu trên đủ chữ, còn câu cuối cùng chỉ có một chữ.

Ví dụ: bài Lươn

Cứ nghĩ rằng mình ngắn,
Ai ngờ cũng dài đường.
Thế mà còn chê trạch:
Lươn!
Vô Danh

Ví dụ: Cha con đánh cờ

Ánh nắng vừa nghiêng ngọn trúc già
Cha con vui vẻ bày cờ ra
Đồng xanh gió mát trà thơm ngát
- Ha!
Không - Một! Xưa nay ai chả lầm
- Ván này...Thôi! Hết! Chốt xuyên tâm
Lâng lâng quý tử ngâm thơ luật
R...ầ...m!
Trước ngõ chỏng chơ tướng sĩ bồ
Ngoài sân cao thủ khóc nhi nhô
- Nín ngay! sắp lại cho tao gỡ!
- Dzô!
Nắng đã khuất dần phía núi xa
Cơm canh lên khói đợi trong nhà
Dưới thềm xe ngựa còn rầm rộ
- Chà!
Trường Văn Nguyễn Phước Thắng

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

Chú giải 1:  Trích trong tuyển tập thơ Tình bạn, tình yêu thơ - Nhà xuất bản giáo dục 1987
Chú giải 2:  Có tài liệu chép Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Chú giải 3:  Trích từ trang

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Luật thơ Lục Bát

Để giúp một số bạn đọc trẻ tuổi là học sinh, sinh viên… cùng những người mới tập làm thơ lục bát có thêm sự rành rẽ về luật thơ lục bát, người biên soạn xin được giới thiệu bài nói về luật thơ... dùng cho người mới tập làm thơ, chứ tuyệt nhiên không dám múa rìu qua mắt các thợ thơ. Những chi tiết trong bài viết này là tổng hợp, chọn lọc, biên soạn từ nhiều tài liệu tham khảo khác nhau, cũng có thể dùng nguyên câu chữ của một tác giả khác... Các ví dụ cốt minh họa cho sát vấn đề nêu ra chứ không đề cập tới yếu tố hay hoặc dở. Rất mong được quý bạn đọc góp ý, bổ khuyết.

1 - Vần tiếng Việt:

Vần là yêu cầu tối quan trọng đối với thơ lục bát nên cần nắm sơ qua về “vần” tiếng Việt.

+ Tiếng việt có các vần sau:

A

ac

ach

ai

am

an

ang

anh

ao

ap

at

au

ay

ăc

ăm

ăn

ăng

ăp

ăt

âc

âm

ân

âng

âp

ât

âu

ây

e

ec

em

en

eng

eo

ep

et

ê

êc

êch

êm

ên

êng

ênh

êp

êt

êu

i

ia

ich

iêc

iêm

iên

iêng

iêp

iêt

iêu

im

in

inh

ip

it

iu

o

oa

oac

oach

oai

oam

oan

ang

oanh

oao

oap

oat

oay

oăc

oăm

oăn

oăng

oăp

oăt

oc

oe

oec

oem

oen

oeng

oeo

oep

oet

oi

om

on

ong

ooc

oong

op

ot

ô

ôc

ôi

ôm

ôn

ông

ôông

ôp

ôt

ơ

ơc

ơi

ơm

ơn

ơng

ơp

ơt

u

ua

uân

uâng

uât

uây

uc

uêch

uênh

ui

um

un

ung

uôc

uôi

uôm

uôn

uông

uôt

up

ut

uy

uya

uych

uyêc

uyên

uyêt

uym

uyn

uynh

uyp

uyt

uyu

ư

ưa

ức

ưi

ưm

ưn

ưng

ước

ươi

ươm

ươn

ương

ươp

ươt

ươu

ưt

ưu

y

ych

yêm

yên

yênh

yêt

yêu

ym

yn

ynh

yp

+ Vần tiếng Việt bắt đầu bằng các nguyên âm, là nguyên âm hoặc nguyên âm ghép với các phụ âm đơn hoặc phụ âm kép.

Ví dụ: Từ TA có vần là A là nguyên âm A.

Từ THAN có vần là AN là nguyên âm A ghép với phụ âm đơn N.

Từ THANH có vần là ANH là nguyên âm A ghép với phụ âm kép NH.

+ Vần tiếng Việt nếu có hai nguyên âm đứng đầu thì tính cả hai nguyên âm đó. Ví dụ: Từ TOANH có vần là OANH.

Tuy nhiên cũng có trường hợp lại chỉ tính từ nguyên âm thứ hai. Việc xác định vần trong trường hợp này nên tra cứu bảng thống kê vần trên đây để tham khảo. Ví dụ:

- Từ “quện” có vần là “ên” chứ không phải “uên” vì trong bảng tra vần không có vần “uên”.

- Từ “giang” có vần là “ang” chứ không phải “iang” vì trong bảng tra vần không có vần “iang”.

2 - Các loại vần trong thơ lục bát:

- Một cặp thơ lục bát gồm hai câu: câu đầu 6 từ, câu hai 8 từ.

- Thơ lục bát có các loại vần sau:

Mỗi vần có hai dạng là VẦN BẰNG và VẦN TRẮC tùy thuộc vào các thanh (còn gọi là dấu) kèm theo nó. Ví dụ: vần “an” có “an”, “àn” là vần bằng, “án”, “ản”, “ãn”,“ạn” là vần trắc.

+ Vần bằng: là vần không có thanh và vần có thanh huyền (tức dấu huyền). Ví dụ:

“Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”

thì từ “ta”, “nhau” có vần không thanh (không dấu). Còn từ “là” có vần có thanh huyền (dấu huyền).

+ Vần bằng trong thơ lục bát: Từ thứ 6 câu lục và từ thứ 8 câu bát thường là vần bằng. Vần được nối tiếp từ vần chân câu lục sang vần lưng (tức vần yêu) của câu bát. Vần chân câu bát lại nối tiếp hiệp vần với vần chân câu lục tiếp sau...

+ Vần trắc: là các vần có một trong các thanh: sắc, hỏi, ngã, nặng. Ví dụ:

Tò vò mà nuôi con nhện

Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi

Các từ “nhện” và “quện” mang vần trắc. Trường hợp này rất ít khi dùng. Nếu sử dụng thì bao giờ từ thứ 6 của câu lục và câu bát cũng đều phải dùng thanh trắc.

+ Vần chân: là vần ở cuối câu lục và cuối câu bát. Ví dụ:

Một đời đuổi bóng bắt hình

Tóc sương mới ngộ ra mình ngu ngơ.

Thì vần “inh” trong từ “hình” ở câu lục, vần “ơ” trong từ “ngơ” ở câu bát là các vần chân.

+ Vần chính và vần phụ: Vần gieo ở câu trước là vần chính, vần gieo ở câu sau là vần phụ. Nếu vần câu sau cùng vần với vần câu trước thì cũng là vần chính.

+ Vần yêu: Là vần ở giữa câu bát, thường là vần ở từ thứ 6, nếu vần rơi vào từ thứ 4 thì từ thứ 6 phải chuyển ngược thanh với từ thứ 4. Ví dụ:

Yêu em anh nắm cổ tay

Anh hỏi câu nàylấy anh không.

+ Điệp vận: Vần tiếp sau giống hệt vần trước.

+ Phong yêu (lưng ong): Trong một câu mà vần lưng và vần chân đều cùng một vần thì gọi là phong yêu. Cần tránh phong yêu vì đọc lên nghe không hay. Ví dụ:

Cả đêm thao thức bồn chồn

Râm ran tiếng mõ dập dồn đầu thôn.

+ Lạc vận: Là vần chân câu lục sang vần lưng câu bát, vần chân câu bát sang vần chân câu lục tiếp theo lại không cùng vần, đọc nghe mất âm điệu. Ví dụ:

Mang danh kẻ sĩ Bắc

Lại chui vỏ ốc, lại chuồn đi đâu.

+ Vần thông và lân vận (vần ép): Các vần nối tiếp nhau phải cùng vần (vần chính), nếu vần tiếp theo khác hẳn vần chính thì lạc vận, nếu gần giống vần chính thì gọi là lân vận, nếu vần đọc lên nghe na ná vần chính thì gọi là vần thông (vần phụ). Ví dụ:

Lù lù ngồi giữa công đường

Ra oai có vẻ ông hoàng ta đây.



3 - Luật bằng trắc trong thơ lục bát:

A - Mô hình:

Các từ số: 1 2 3 4 5 6 7 8

Câu lục 1: + B + T + B

Câu lục 2: + T T + + B

Câu bát 1: + B + T + B + B

Câu bát 2: + T + B + T + B

(Ký hiệu: B là thanh bằng, T là thanh trắc, + là tự do.)

B – Luật bằng trắc trong thơ lục bát:

- Các từ 2, 4, 6, 8 phải luôn đúng luật bằng trắc (xem mô hình trên).

- Các từ 2, 4 câu lục phải niêm với các từ 2, 4 câu bát.

- Từ thứ 2 câu lục và câu bát phải là thanh bằng. Trường hợp bố trí từ thứ 2 câu lục là thanh trắc thì phải đưa vềdạng tiểu đối. Tức là chia câu lục làm 2 về, mỗi vế 3 từ, đối nhau. Từ thứ 2, 3 phải là thanh trắc, từ thứ 6 phải là thanh bằng (như mô hình câu lục 2). Ví dụ:

Đi vạn dặm, viết nghìn trang

Khơi trong gạn đục vẻ vang một đời.

Chú ý: Từ số 5 câu lục nên dùng thanh bằng để đảm bảo đối cho cân, trường hợp hãn hữu mới dùng thanh trắc. Ví dụ:“Khi tựa gối, khi cúi đầu”... Nếu làm thơ nghệthuật quyết không dùng trường hợp hãn hữu này.

- Từ thứ 4 câu lục và câu bát phải là thanh trắc. Để câu thơ cân đối thì từ thứ 4 phải là thanh trắc (để gánh hai thanh bằng ở từ thứ 2 và 6). Nếu ở câu bát đã gieo vần lưng vào từ thứ 4 là thanh bằng thì từ thứ 6 phải dùng thanh trắc.

- Muốn câu thơ có nhạc thì ở câu bát phải bố trí từ thứ 6 thanh không (không dấu) và từ thứ 8 thanh huyền hoặc ngược lại. Nếu bố trí cả hai từ này cùng một thanh huyền (hoặc cùng thanh không) thì câu thơ đọc lên mất tính nhạc. Ví dụ:

Hỏi thăm cô ấy có chồng chưa nào?

4 - Họa thơ lục bát:

- Khi họa thơ lục bát cần tuân thủ nghiêm yêu cầu: Từ thứ 5, 7 ở câu bát và từ thứ 5 câu lục không được trùng với bài xướng.

- Khi họa nguyên vận thơ lục bát phải dùng đúng vần (cả vần chân và vần lưng) với bài xướng. Nhưng cũng có thể chỉ họa đúng vần chân cho dễ hơn...

5 - Tập Kiều và lẩy Kiều:

- Tập Kiều là lấy nguyên văn câu lục và câu bát ghép lại với nhau thành một bài thơ lục bát hoàn chỉnh. Chú ý: không được thay đổi một từ nào, cũng không được lấy cả cặp câu lục bát liền nhau.

- Lẩy Kiều là mượn từng câu trong Truyện Kiều, có sửa đổi đôi chút, rồi ghép lại thành một bài thơ có nội dung định thể hiện, không bắt buộc phải giữ nguyên vần.

6 - Tiểu đối:

Thơ lục bát không bắt buộc phải dùng tiểu đối. Nhưng nếu sử dụng thì ở câu lục chia hai phần phải đối nhau toàn diện (thanh, ý, từ). Còn câu bát cũng chia hai phần chỉcần đối ý, riêng từ thứ 4 và từ thứ 8 phải đối cân cả thanh và ý.

Trần Mỹ Giống (biên soạn)

Điện thoại: 0919811050

3 tháng 12, 2016

Niên biểu Nguyễn Du

Các sự kiện quan trọng

Nguyễn Du sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766 (nhằm ngày 23 tháng 11 năm Ất dậu Âm lịch) tại phường Bích Câu, Thăng Long – nay là Hà Nội, dưới triều Lê Cảnh Hưng; quê ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ Tĩnh.

Năm 1767, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, hàm tòng nhất phẩm, tước Xuân Quận Công.

Năm 1771, Nguyễn Nghiễm trí sĩ, được thăng Đại tư đồ, sau được mời giữ chức quan Tham tụng, rồi đổi làm Thượng thư bộ Hộ. Nguyễn Du cùng gia đình Tể tướng Nguyễn Nghiễm chuyển về ở làng Tiên Điền.
Anh em nhà Tây Sơn khởi binh tại ấp Tây Sơn – nay thuộc huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.

Năm 1774, Nguyễn Nghiễm sung chức Tả tướng, cùng Hoàng Ngũ Phúc đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Đoàn Nguyễn Thục giữ chức Đốc trấn Nghệ An.

Năm 1775, anh trai cùng mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Thục (1757-1775) qua đời. Đoàn Nguyễn Thục qua đời.

Năm 1776, Nguyễn Nghiễm qua đời tại quê nhà. Được truy tặng tước Huân Dụ Đô hiến đại vương, Thượng đẳng phúc thần. Tây sơn hạ thành Gia định.

Năm 1778, bà Trần Thị Tần mẹ Ngyễn Du qua đời. Lúc đó Nguyễn Du được 13 tuổi. Anh thứ hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều - sinh năm 1745 – được thăng Trấn Thủ Hưng Hoá. Nguyễn Du ra Thăng Long ở với anh cả là Nguyễn Khản. Nguyễn Nhạc lên ngôi vua tại Qui Nhơn.

Năm 1780, anh cả Nguyễn Du là Nguyễn Khản (1734-1786) đang làm trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn trong vụ án Canh Tý, bị bãi chức, giam ờ nhà Châu Quận Công. Nguyễn Du trở về làng Tiên Điền ở với người chú là Tiến sĩ Nguyễn Hành. Sau đó lại được Đoàn Nguyễn Tuấn (1750-?) đón về quê ở Sơn Nam Hạ tiếp tục học tập.

Năm 1782, Trịnh Sâm mất, kiêu binh phế Trịnh Cán lập Trịnh Tông lên ngôi Chúa. Nguyễn Khản được vời làm Thượng thư bộ Lại, tước Toản Quận Công. Nguyễn Điều làm trấn thủ Sơn Tây. Cũng trong năm này do nạn kiêu binh dinh thự Nguyễn Khản tại phường Bích Câu bị đốt cháy hoàn toàn.

Năm 1783, Nguyễn Du, 18 tuổi, thi hương tại trường thi Nghệ An và đậu Tam trường. Tuy nhiên ông không tiếp tục thi lên nữa, mà đi nhận một chức quan võ ở Thái Nguyễn, kế chân người cha nuôi của ông vừa mới từ trần. Anh cùng mẹ là Nguyễn Đề (1761-1805) đỗ đầu kỳ thi hương ở điện Phụng Thiên – cử nhân. Nguyễn Khản thăng chức Thiếu bảo, và cuối năm thăng Tham tụng.

Năm 1784, kiêu binh nổi dậy đưa hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên làm thái tử. Tư dinh Nguyễn Khản ở phường Bich Câu bị phá, phải trốn lên ở với em là Nguyễn Điều (1745-?) đang làm trấn thủ Sơn Tây. Nguyễn Huệ đánh tan 2 vạn quân Xiêm ở Rạch Gầm – Xoài Mút.

Năm 1785, Nguyễn Huệ chiếm thành Phú Xuân thuộc quyền kiểm soát của chính quyền Bắc Hà, Lê-Trịnh.

Năm 1786, Nguyễn Khản xin cho Nguyễn Du làm chức Chánh Phủ Hiệu Úy tỉnh Thái Nguyên. Nguyễn Du sau đó cưới bà Đoàn Thị Huệ con gái Đoàn Nguyễn Thục, đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Thân (1752) đang giữ chức Ngự Sử tại triều. Người xã An Hải, huyện Quỳnh Côi, Trấn Sơn Nam (nay là tỉnh Thái Bình).

Cũng trong năm 1786, Nguyễn Huệ ra Bắc đánh Trịnh vói chiêu bài "diệt Trịnh, phò Lê". Trịnh Tông bị bắt và tự tử, kết thúc 216 năm vua Lê chúa Trịnh (1570-1786). Nguyễn Khản bị bệnh mất ở Thăng Long. Vua Lê Hiển Tông mất. Lê Chiêu Thống nối ngôi.

Năm 1787, Vũ Văn Nhậm theo lệnh Nguyễn Huệ ra bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh.

Năm 1788, Nguyễn Huệ ra bắc diệt Vũ văn Nhậm. Nhà Lê mất nghiệp, Lê Chiêu Thống lưu vong sang Tầu cầu viện nhà Thanh. Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế ở Phú Xuân – nay là Huế, đổi niên hiệu là Quang Trung. Nguyễn Ánh tái chiếm thành Gia Định

Năm 1789, Nguyễn Huệ kéo binh ra Bắc, đại thắng quân nhà Thanh, Vua Lê Chiêu Thống trốn sang Tầu cầu cứu. Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác với Tây Sơn, giữ chức thị lang bộ Lại. Nguyễn Du về ẩn cư tại quê vợ tại Quỳnh côi, trấn Sơn Nam – nay thuộc tỉnh Thái Bình – cho đến 1795.

Năm 1791, Nguyễn Quýnh, con thứ tư của Nguyễn Nghiễm, nổi lên chống Tây Sơn bị bắt và bị giết. Quân Tây Sơn phá sạch dinh cơ họ Nguyễn.

Năm 1792, vua Quang Trung băng hà.

Năm 1793, Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền, cuối năm vào kinh đô thăm anh là Nguyễn Đề đang làm Thái sử ở Viện cơ mật và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn.

Năm 1794, Nguyễn Đề được phong Tả phụng nghi bộ Binh và vào giữ chức Hiệp tán nhung vụ

Năm 1795, vợ Nguyễn Du qua đời tại Quỳnh Côi. Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà Thanh; xướng hoạ thơ cùng các sứ thần Triều Tiên.

Năm 1796, Nguyễn Du bị chính quyền Tây Sơn bắt giam vì bị tình nghi cộng tác với chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Nhờ Thận quân công là bạn của Nguyễn Đề, anh của Nguyễn Du, lại ngưỡng mộ văn tài của Nguyễn Du, nên chỉ giam ba tháng rồi tha. Nguyễn Đề đi sứ nhà Thanh trở về được thăng chức Tả đồng nghị Trung thư sảnh.

Từ 1797 đến năm 1804: Nguyễn Du ẩn dật tại Tiên Điền.

Năm 1801, Nguyễn Ánh hạ Thành Huế, qua năm sau 1802 hạ thành Thăng Long thống nhất sơn hà, lên ngôi Hoàng đế niên hiệu Gia long, xuống chiếu mời các cựu thần Nhà Lê trở lại làm quan, đổi tên nước thành Việt Nam.

Năm 1802, Nguyễn Du ra làm Tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, Trấn Sơn Nam – nay thuộc tỉnh Hưng Yên. Mấy tháng sau, thăng Tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng – nay thuộc tỉnh Hà Tây.

Năm 1804, nhà Thanh công nhận nước Việt Nam. Nguyễn Du được cử đón sứ thần sang tấn phong vua Gia Long.

Năm 1805, Nguyễn Du bắt đầu vào Huế làm quan với nhà Nguyễn và được thăng Đông Các điện học sĩ, tước Du Đức Hầu.

Năm 1807, Nguyễn Du được cử làm giám khảo kỳ thi Hương tại Hải Dương.

Năm 1808, Nguyễn Du xin về quê nghỉ.

Năm 1809, Nguyễn Du được bổ làm Cai bạ - hàm Tứ phẩm – tại Quảng Bình.

Năm 1813, thăng Cần Chánh điện học sĩ, được cử làm Chánh Sứ đi Trung Quốc.

Năm 1814, Đi sứ về được thăng Hữu tham tri bộ Lễ - hàm Tam phẩm.

Năm 1816, anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh (1759-1828) vì liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bì đày vào Quảng Nam.

Năm 1820: Vua Gia Long băng hà, Vua Minh Mạng lên ngôi, Nguyễn Du được cử sang Trung Quốc lần thứ hai, nhưng chưa kịp đi thì bị bệnh mất vào ngày 16 tháng 9 năm 1820 (10 tháng 8 Canh Thìn), hưởng thọ 55 tuổi. An táng tại làng An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1824, được con là Nguyễn Ngũ cải táng tại Tiên Điền.

Đại Nam Liệt Truyện viết: "Đến khi đau nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi. Ông nói "được" rồi mất; không trối lại điều gì."

Năm 1965, Hội đồng Văn Hóa Thế giới – nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông - vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân Văn hoá và Nhà thơ Nhân loại.

(Viết theo tài liệu của La Sơn Nguyễn Hữu Sơn)

29 tháng 11, 2016

Tư liệu quý về Nguyễn Du

 

Posted on 10.11.2013

ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM. Tôi đã có một ít bài viết nhỏ (Notes) về Nguyễn Du: Đọc Bill Gate nhớ Nguyễn Du; Nguyễn Du nửa đêm đọc lại; Nguyễn Du và những câu thơ tài hoaTâm sự Nguyễn Du qua Đối tửu; Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ c; Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ; Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ. Trước đối tửu, thầm thương bậc anh hùng. “Ba trăm năm nữa chốc mòng. Biết ai thiên hạ khóc cùng Tố Như“. Tôi đã từng trăn trở Nguyễn Du nửa đêm đọc lại; sau bài viết “Một khám phá độc đáo về Truyện Kiều” của Giáo sư Nguyễn Lân Dũng về cuốn sách “Thử tìm hiểu tâm sự Nguyễn Du qua Truyện Kiều” của GS. NGND Ngô Quốc Quýnh (Đại học Quốc gia Hà Nội). Trong cuốn sách này, tác giả đã cho rằng Nguyễn Du gửi gắm tâm sự của mình qua Truyện Kiều mà Từ Hải chính là Nguyễn Huệ, Kim Trọng là Lê Chiêu Thống và nàng Kiều là Nguyễn Du.

Gần đây, tôi đọc được một số bài viết mới khá hay: Nguyễn Du – Nguyễn Công Trứ; Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương;  Tết, đọc lại thơ Nguyễn Du;  Đọc Nguyễn Du, nhớ Nguyễn Khuyến, Khóc Tố Như , soi sáng thêm những  góc nhìn mới. Tuy vậy, một vị Thiền sư đã gợi ý cho tôi phải tìm hiểu sâu thêm những uẩn khúc chưa rõ như : Nguyễn Du là người thế nào? Nguyễn Du Bắc hành tạp lục;  Nguyễn Du với Hồ Xuân Hương; Nguyễn Du và Kinh Kim Cương; Nguyễn Du so tài Nguyễn Huệ; Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ; Nguyễn Du tri kỷ, tri âm; Tố Như sau ba trăm năm; Nguyễn Du viếng Kỳ Lân mộ; Hoành Sơn những bài thơ cổ; Hồng Lam vằng vặc sao Khuê. May thay lần này tôi được tiếp xúc với tư liệu quý của Phạm Trọng Chánh:  Đọc sách Nguyễn Du trên đường gió bụi của Hoàng Khôi  đăng trên Văn hóa Nghệ An đã soi sáng thêm nhiều điều nghi vấn.

Nhà nghiên cứu Phạm Trọng Chánh nói những lời thật cảm khái : “Trong tình hình đọc sách hiện tại trong nước và hải ngoại, mỗi người Việt Nam đọc không đến một quyển sách một năm, các nhà xuất bản tại hải ngoại chỉ sống nhờ sự hy sinh của tác giả, tự viết tự bỏ tiền in, không kể gì lời lỗ. Sách gửi đi các nơi không hy vọng gì thu tiền lại. Trong nước sách in được 1500 quyển như  Nguyễn Du trên đường gió bụi anh Hoàng Khôi là thuộc loại khá. Đáng cho chúng ta khuyến khích. Phải chăng vì thiếu sách hay, các nhà văn ngày nay không đủ sức hấp dẫn lôi kéo người đọc chăng. Nghĩ lại ngày xưa thời Tự Lực Văn Đoàn, Thơ Mới, những năm 1930-1940 mỗi năm người đậu Tú Tài chỉ vài chục người, người biết chữ quốc ngữ có là bao nhiêu trên 25 triệu dân thế mà sách  đã tạo ra những trào lưu văn học lớn mạnh. Ngày nay chúng ta có 90 triệu dân trong nước và 4 triệu người Việt hải ngoại, mà tình hình sách vở còn thua các nước nhược tiểu, nghĩ thật đáng buồn. Chúng ta không nâng cao được dân trí, mà dân trí lại thụt lùi.  Được một nhà văn như anh Hoàng Khôi, hy sinh thức đêm thức hôm để viết sách, để mua vui một vài trống canh, tôi mừng và mong có nhiều người như anh Hoàng Khôi. Đừng để các thế hệ mai sau không còn biết viết văn, biết đọc mà chỉ còn biết bấm mấy câu vớ vẫn trên điện thoại di động.

Tôi từng tâm đắc với Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ  nơi “bia tàn chữ mất vùi gai góc/ nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe” càng cho thấy nhân cách kẻ sĩ và sự cảm thông của ông đối với Liễu Hạ Huê sâu sắc đến dường nào. Người hiền thực ra đời nào cũng có, thời thế nhiễu loạn, chẳng qua vàng lầm trong cát đấy thôi. Nguyễn Du là con quan tướng quốc Nguyễn Nhiễm cựu thần nhà Lê và mẹ ông là người phụ nữ tài sắc, vợ lẽ nhà quan, gặp lúc thế nước động loạn, chúa Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều có ý riêng. Ông lớn lên trong cảnh lận đận không nhà, có tài mà không thể cậy. Ông là một đại sĩ phu tài năng trác tuyệt nhưng chỉ làm một viên quan thường triều Nguyễn mà vua vừa dùng, vừa tìm cách kiềm chế như đối với Nguyễn Công Trứ, Phan Huy Chú. Ông vì giỏi nên được vua Nguyễn cử đi sứ Tàu mà thôi. Thơ Nguyễn Du vì vậy kín đáo và sâu sắc hiếm thấy (Ảnh: Mộ Nguyễn Du ở Hà Tĩnh). Để thấu hiểu những giá trị nhân văn đích thực, rất cần những khoảng lặng để đối diện với chính mình.  Hôm trước tôi đã có dịp cùng với những người bạn quý thảo luận về hành vi ứng xử của Liễu Hạ Huệ gần gũi với một người nữ mà ông không mang tiếng dâm tà. Nhờ việc tra cứu, đọc đi đọc lại nhiều lần bài thơ ‘Liễu Hạ Huệ mộ’ của cụ Nguyễn Du, tôi chợt sững người, nhận thức thêm được những nỗi niềm, của cụ Nguyễn lấp lánh sau những con chữ …
???????????????????????????????

Tôi đọc cuốn sách “Nguyễn Du” của nhà giáo Nguyễn Thế Quang “Của tin còn một chút này làm ghi” không dưới hai mươi lần (Trang sách Nguyễn Du với lời đề tặng của tác giả Nguyễn Thế Quang, ảnh Hoàng Kim), và sực thấm hiểu vì sao Nguyễn Du đọc Kinh Kim Cương chú giải của Lê Quý Đôn trên nghìn lần cũng như chợt hiểu vì sao Hồ Chí Minh “sao vàng năm cánh mộng hồn quanh“. Sáu cuốn sách quý góp phần giải mã Nguyễn Du và Truyện Kiều theo tôi đó là: Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du,”Hoàng Lê Nhất Thống Chí” của Ngô Gia Văn Phái, “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim, “200 năm nghiên cứu bàn luận truyện Kiều” 1989 trang của Lê Xuân Lít, “Nguyễn Du” 416 trang của Nguyễn Thế Quang, “Thả một bè lau”, Truyện Kiều dưới cái nhìn Thiền quán, 471 trang của Nhất Hạnh.

Dẫu vậy tôi vẫn hồ nghi nhiều điều, chưa đủ tư liệu trao đổi với các giáo sư Nguyễn Lân Dũng, Ngô Quốc Quýnh nhà giáo Nguyễn Thế Quang, nhà nghiên cứu Bulukhin Nguyễn Quốc Toàn và  còn nợ  Ví Dặm Ân Tình, Quỳnh Trâm, Huy Việt … những lời bàn luận.

Hôm nay tôi thông tỏ được một phần của giấc mơ lạ trước kia nhờ phản biện sâu sắc và các dẫn liệu của nhà nghiên cứu Phạm Trọng Chánh. Ông là người bôn ba hải ngoại đã hiểu tác phẩm Nguyễn Du trên đường gió bụi của Hoàng Khôi một cách sâu sắc hiếm thấy, chân thành, đức độ và khích lệ tác giả Hoàng Khôi với một triết lý dạy và học mẫu mực. “Nghiên cứu không phải là chuyện độc quyền của riêng ai, không phải chuyện người sau đánh đổ người trước để được nổi danh hơn mà người đi sau nối tiếp người trước, làm giải quyết những nghi vấn còn tồn đọng, làm cho việc nghiên cứu ngày càng phát triển, sáng tỏ“.

Tôi mừng không ngủ được trước tư liệu quý này và xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Hoàng Kim

xem tiếp:

ĐỌC SÁCH “NGUYỄN DU TRÊN ĐƯỜNG GIÓ BỤI” CỦA HOÀNG KHÔI

Phạm Trọng Chánh

Nguồn Văn hóa Nghệ An thứ bảy, 09 tháng 11 2013 06:12

Có gì vui hơn, khi những thành quả nghiên cứu văn học của mình được bè bạn Hội Kiều Học trong nước hưởng ứng viết thành tiểu thuyết.  Nhận được sách anh Hoàng Khôi: Nguyễn Du trên đường gió bụi với lời đề tặng : “Thân tặng anh Phạm Trọng Chánh. Cám ơn anh vì những bài viết của anh đã gợi ý nhiều và tạo cảm hứng cho tôi hoàn thiện cuốn sách này “. Người viết vội vàng viết bài về quyển sách anh gửi tặng, giúp anh “nhặt sạn” những sơ sót trong lúc say sưa viết. Tiếc là không được đọc bản thảo lúc sách chưa ra đời để công trình anh được hoàn hảo hơn, thôi thì góp ý kiến để lần tái bản anh xem xét lại. Bài viết cũng trả lời các thắc mắc nhiều bạn khi thấy dàn bài sách anh Hoàng Khôi trùng hợp với tên tựa các bài tôi đã viết đăng trên nhiều site trong nước và hải ngoại, gửi email hỏi tôi, mong rằng bài viết này giải toả các nghi ngờ về sách anh Hoàng Khôi.

Người nghiên cứu văn học sau bao năm tìm kiếm giải quyết những thắc mắc của  các học giả đi trước :  Tại sao Nguyễn Du có những bài thơ làm ở Trường An, Hàng Châu không nằm trên đường đi sứ năm 1813 ? Tại sao trong Thanh Hiên thi tập có các địa danh : Liễu Cao Lâm, Trường An, Giang Hán, Giang Bắc, Giang Nam, Nam Đài, Long Thủy, những địa danh ấy ở đâu ? Những người đi trước không nghĩ tới chỉ dịch phớt qua hay bỏ quên !   Nhân vật Nguyễn Đại Lang trong Thanh Hiên thi tập là ai ? Nguyễn Du trong thơ tiễn biệt có nói đã cùng kết nghĩa sinh tử, cùng tồn vong, chia tay tại đâu mà hẹn gặp lại tại Trung Châu ? Trung Châu là Hà Nội hay ở Trung Quốc. Nguyễn Du từ năm 1783 làm Chánh Thủ Hiệu Quân Hùng Hậu hiệu tại Thái Nguyên. Sách sử các tài liệu rãi rác : Nguyễn Khản làm Thượng Thư Bộ Lại kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa, Hoàng Lê Nhất Thống Chí có nói đến Cai Gia, tay giặc già, thuộc hạ của Nguyễn Khản nắm binh quyền tại Thái Nguyên. Lê Quý Kỷ Sự của Nguyễn Thu có nói đến cuộc khởi nghĩa tại Tư Nông của cựu Trấn Thủ Thái Nguyên Nguyễn Đăng Tiến, tước Quản Vũ Hầu, bị tướng Tây Sơn bắt giải về cho Vũ Văn Nhậm, Nhậm trọng khí khái dụ hàng, lại tha bổng cho phép muốn đi đâu thì đi. Gom lại các tài liệu, tôi tìm được một nhân vật, vừa là thầy, là anh kết nghĩa Nguyễn Du và cũng là Từ Hải, mở cách cửa  Nguyễn Du đã vào bước đường đi giang hồ khắp Trung Quốc thời thanh niên.Những chi tiết rành rành trong Thanh Hiên thi tập có những bài tả cảnh tuyết, núi non trùng điệp, lá vàng, trưởng giả ăn mặc còn theo nhà Hán (không theo nhà Thanh để tóc bính đuôi sam, áo quần Mãn Châu), dân chúng theo lịch nhà Tần, xử dụng nhạc cụ “tù và” ? Nguyễn Du có hư cấu, ở Quỳnh Hải, Hồng Lĩnh theo sách vở mà tưởng tượng làm thơ, hay thơ chữ Hán Nguyễn Du là những trang nhật ký ?Tại sao Nguyễn Du có những câu thơ kỳ lạ : Tôi đọc kinh Kim Cương nghìn lượt ?. Muôn dậm mũ vàng chiều nắng xế? Giang Bắc, Giang Nam cái túi không? Nguyễn Du làm gì mà đọc kinh Kim Cương trong ba năm, đội mũ vàng nhà sư đi muôn dậm (khoảng 5000 km), làm gì không tiền mà đi hết các sông phía bắc đến sông phía nam Dương Tử Giang ? Nguyễn Du ở đâu mà cách Trường An ngàn dậm về phía Nam ?Theo Nguyễn Hành, cháu Nguyễn Du, có viết ông có một cuộc đời giang hồ như cuộc đời làm quan : Giang hồ long miếu hai điều đủ, Thi họa cầm thư bốn nghệ tinh.Theo gia phả từ năm 1786 đến 1796 Nguyễn Du về quê vợ tại Quỳnh Hải, Thái Bình hợp cùng Đoàn Nguyễn Tuấn khởi nghĩa chống Tây Sơn.  Nhưng điều này không đúng vì từ năm 1788 Đoàn Nguyễn Tuấn ra làm quan Tây Sơn và đi sứ trong đoàn 158 người năm 1790. Đoàn Nguyễn Tuấn có hai bài thơ viết tặng một văn nhân họ Nguyễn, gặp tại Hoàng Châu, Trung Quốc  vào mùa thu bàn luận về văn chương sôi nổi chuyện gì ?, Đoàn Nguyễn Tuấn phải lên Nhiệt Hà nơi vua Càn Long đang nghỉ mát ? Văn nhân họNguyễn đi xe song mã về Nam và hẹn gặp lại tại nước nhà vào mùa xuân. Trên đường đi cớ gì mà Đoàn lại viết một bài thơ Vô Đề về hồng nhan đa truân khi gặp một ca nhi hát cho sứ đoàn tại bến sông Hán?.Mang những thắc  mắc bao nhiêu năm, năm 2009, tôi đi Trung Quốc qua những thành phố Nguyễn Du đi sứ và các địa danh trong thơ, tôi nghiên cứu, tham khảo sách vở từng con sông, từng hồ, từng thắng cảnh Nguyễn Du đã đi qua, tôi dịch lại toàn bộ thơ chữ Hán Nguyễn Du, do không nghĩ đến Nguyễn Du có một thời gian đi giang hồ tại Trung Quốc thời trẻ, những địa danh bị người đi trước không hiểu nên bỏ qua hay dịch sai và tôi hoàn thành quyển Nguyễn Du mười năm gió bụi và mối tình Hồ Xuân Hương. Khuê Văn Paris Xb 2011. Và gần đây tôi viết thành nhiều bài nhỏ để phổ biến trên các báo điện tử.

Nghiên cứu không phải là chuyện độc quyền của riêng ai, không phải chuyện người sau đánh đổ người trước để được nổi danh hơn mà  người đi sau nối tiếp người trước , làm giải quyết những nghi vấn còn tồn động, làm cho việc nghiên cứu ngày càng phát triển, sáng tỏ. Điều may mắn trong nghiên cứu về Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương tôi có dịp gặp gỡ bàn bạc với Giáo sư Hoàng Xuân Hãn và Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn.

Những thắc mắc về Nguyễn Du tôi đã từng bàn với Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, từ những năm 1980 thuở còn thanh niên trong những lần tôi về nghỉ hè hàng tháng trời tại dã thự Cam Tuyền, tại Trouville bờ biển Normandie, Giáo sư khuyến khích, chỉ dẫn tôi những điều giáo sư nghi ngờ và chưa tìm ra câu giải đáp. Tôi mang nặng những lời hướng dẫn của giáo sư suốt mấy mươi năm, nên đọc lại, dịch lại từng câu từng chữ thơ chữ Hán, chữ Nôm Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du. Ở Paris mà nghiên cứu Văn Học Việt Nam quả thật là chuyện gàn, vì ban ngày nói tiếng Pháp, làm ăn sinh sống bằng tiếng Pháp, mà ban đêm cứ thao thức ngồi viết bằng tiếng Việt, dịch thơ tiếng Việt chữ Hán, chữ Nôm. Được tiếp xúc với kho tàng văn hóa Hán Nôm lưu trữ tại Trường Viễn Đông Bác Cổ Paris, di sản cha ông mình nhiều quá, mà người nghiên cứu lác đác như lá mùa thu, vì việc làm chẳng ai trả lương, chỉ để tiêu khiển. Ngày xưa, tôi tò mò hỏi giáo sư Hoàng Xuân Hãn : Vì sao Bác tốt nghiệp trường Bách Khoa Paris, tốt nghiệp Kỹ sư Hầm Mỏ, Thạc Sĩ Toán mà lại dành cả đời đi nghiên cứu văn chương Việt Nam ? Bác trả lời :  “Việc ấy các anh em trẻ có nhiều sẽ làm giỏi hơn bác, nhưng kho tàng văn học Việt Nam nếu không ai làm, di sản tổ tiên sẽ mất đi rất nhiều“. Rồi từ lúc, ngồi trên ghế trường Bách Khoa Paris, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã viết tự điển danh từ Khoa Học bằng tiếng Việt, đặt nền tảng cho việc giảng dạy tiếng Việt, chỉ một năm làm Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục và Mỹ Thuật, giáo sư đã đặt nền tảng cho chương trình giảng dạy bằng tiếng Việt còn tồn tại cho đến ngày nay. Trong tiếng súng chiến tranh Pháp Việt, giáo sư Dương Quảng Hàm lao vào cứu thư viện của mình và bị chết cháy. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn vẫn tiếp tục đi mua hàng gánh sách vở các đại gia bị con cháu đem bán làm giấy bổi, rồi mang nó ra xa nơi chiến tranh ngồi tiếp tục nghiên cứu, chẳng màng đến danh lợi. Bác Hãn viết sách cả đời, công sức như cả một Viện Văn Học nhưng không hề hưởng được một đồng nào do sách vở mang lại. Với địa vị, bằng cấp tại Pháp, Bác Hãn có thể trở nên giàu có, nhưng Bác biết dừng lại khi đã có đầy đủ và dành thì giờ nghiên cứu di sản tổ tiên.

Tôi vốn nặng nợ với nghiệp văn chương, thuở học trung học đã làm thơ viết báo, nhiều khi tự nhủ lòng : Trang Tích xưa khi bệnh mới rên bằng tiếng Việt, chứ tôi đi du học từ năm 19 tuổi, mà cứ rên bằng tiếng Việt suốt hơn 43 năm. Thôi thì như Tú Xương : Một chè, một rượu, một đàn bà.. mình thì chẳng rượu chè, cờ bạc chỉ mê có cô Hồ Xuân Hương và cô Kiều.

Công trình Nguyễn Du, mười năm gió bụi và mối tình Hồ Xuân Hương sau khi hoàn thành từ Paris năm 2011, tôi gửi sang Moscou tặng Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn trong những ngày cuối đời, giáo sư cho biết bị phong thấp tê liệt cả nửa người, chỉ còn một tay gõ chữ, bao ngày tháng trông đợi, thường xuyên viết Email hỏi thăm khuyến khích, không có quyển Hoàng Lê Nhất Thống Chí tại Moscou, Giáo sư nhờ môn sinh từ trong nước gửi qua, cầm quyển sách trong tay, giáo sư đánh Email hỏi gấp : Cai Gia ở trang mấy, anh nói gấp cho tôi biết,  giáo sư rất vui khi đọc được những khám phá mới của tôi về Nguyễn Du, nhất là về Cai Gia Nguyễn Đại Lang sẽ mở ra cánh cửa về cuộc đời giang hồ của Nguyễn Du và Giáo sư vui vẻ nói rằng khám phá này rằng “sẽ làm mưa làm gió”… không ngờ đây  là quyển sách cuối cùng Giáo sư đọc trước khi nhắm mắt lìa đời.

Được Giáo Sư Nguyễn Văn Hoàn, vốn đã quen biết từng sang chơi Paris hơn 30 năm, nay là Chủ Tịch Hội Kiều Học, mời tham gia Hội Kiều Học vừa mới thành lập, nay được anh Vũ Ngọc Khôi, một hội viên Kiều Học viết chuyện Mười năm gió bụi của Nguyễn Du thành tiểu thuyết còn gì vui hơn. Hy vọng có một đạo diễn tài ba, một nhà sản xuất phim, một nhà viết kịch bản phim… sẽ có cảm hứng làm phim truyện nhiều tập về Nguyễn Du – Hồ Xuân Hương chắc chắn sẽ ăn đứt các bộ phim Trung Quốc – Hàn Quốc, sẽ phục hưng văn hóa Việt đánh bạt được các ảnh hưởng văn hóa tình cảm lẫm cẩm, giúp cho giới trẻ Việt Nam biết lịch sử Việt Nam nhiều hơn là sử Trung Quốc,  Hàn Quốc. Hàn Quốc đã làm được bộ phim Xuân Hương, một truyện thơ hàng đầu của Triều Tiên, còn Việt Nam chờ đến bao giờ ?

Mơ ước nhiều, nhưng trước tiên đề nghị với anh Hoàng Khôi, xây dựng lại quyển tiếu thuyết hoàn hảo hơn,  và mắc các sự kiện trên chiếc đinh lịch sử vững chắc.

Trước tiên, để đóng những chiếc đinh sự kiện vào lịch sử, cần tóm lược các sai lầm năm tháng trong Thanh Hiên thi tập, và mười năm gió bụi. Thời gian các tài liệu cũ dựa theo gia phả cho rằng Nguyễn Du theo vua Lê Chiêu Thống không kịp về ẩn lánh quê vợ ở Quỳnh Hải, hợp cùng Đoàn Nguyễn Tuấn chống Tây Sơn 1786-1796 và từ 1796-1802 là thời kỳ dưới chân núi Hồng, Vợ chết năm 1796, Nguyễn Du cõng con Nguyễn Tứ về Hà Tĩnh, làm Hồng Sơn Liệp Hộ. Năm 1802 Nguyễn Du đón đường vua Gia Long tại Hà Tĩnh dâng sớ và được đưa ra Bắc phong làm Tri huyện Phù Dung trấn Sơn Nam.

Cách chia này không đúng vì có các mâu thuẫn : Ngược lại Đoàn Nguyễn Tuấn ra làm quan Tây Sơn. Bài thơ Quỳnh Hải Nguyên tiêu :  Nguyễn Du hạnh phúc bên vợ : Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên, Trăng sáng đầu xuân tỏa ngập tràn, và mình đã trải qua chân trời góc biển đến 30 tuổi. Các tài liệu cũ không biết vợ Nguyễn Du tên gì, không biết năm sinh, làm sao biết năm mất ? Tại Hồng Lĩnh, Nguyễn Du bị tù, Trấn thủ Nguyễn Văn Thận giữ vững Hà Tĩnh cho đến năm 1802, Nguyễn Du không thể chiêu tập thủ hạ và không thể có lương thực, bò, ngựa để dâng vua Gia Long. Người đã làm quan được mời ra (cùng Nguyễn Thiếp) năm 1802 và đi theo vua Gia Long từ Phú Xuân ra Bắc là Nguyễn Nể chứ không phải Nguyễn Du. Bài thơ Chí Hiên tặng của Nguyễn Du lưu trong Lưu Hương Ký của Hồ Xuân Hương, có hai câu : Ra Bắc phen này mong nổi việc, Vào Nam ngẩm trước cũng hoài công. Chứng tỏ Nguyễn Du không tìm được ai ủng hộ mình tại Hà Tĩnh  (Tụ đầu nan đắc thường thanh mụcHọp bạn khó tìm người mắt biếc) Hà Tĩnh trải qua cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, làng Tiên Điền bị làm cỏ, không ai còn muốn phiêu lưu chống Tây Sơn, (Tiếu đề tuẫn tục can qua tế – Khóc cười thời loạn theo trần thế. Tạp thi II). Nguyễn Du không thể ở lại dạy học vì người bạn thân là Thực  Đình dạy học cũng không sống nổi. Cái tên Thực Đình tự cười mình, nói lên số phận chỉ ăn no khi có đám tiệc ở đình làng. Nguyễn Du thất bại, bị tù tại Hà Tĩnh, mới ra trở lại Thăng Long, thì Hồ Xuân Hương đã đi lấy chồng thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nguyễn Du về Quỳnh Hải cưới vợ Đoàn Nguyễn Thị Huệ, do hai ông anh Nguyễn Nể , Đoàn Nguyễn Tuấn thu xếp, năm ấy Nguyễn Du 30 tuổi. Tại Quỳnh Hải, Nguyễn Du dạy học văn võ, chiêu tập thủ hạ, hoàn tất Truyện Kiều, làm ăn khấm khá mới có bò ngựa lương thực dâng vua Gia Long. Từ Quỳnh Hải, Nguyễn Du dẫn thủ hạ đi không xa đến Phù Dung cùng trấn Sơn Nam, thì gặp vua Gia Long, vua phong ngay làm Tri huyện tại đây cho nên có danh hiệu là Phi Tử.  Nguyễn Nể cũng được vua Gia Long để lại Bắc Hà giúp  Tổng Trấn Nguyễn Văn Thành các nghi lễ cho sứ đoàn do Binh Bộ Thượng thư Lê Quang Định làm Chánh sứ xin nhà Thanh phong vương và đổi quốc hiệu là Nam Việt, nhưng không giữ chức vụ gì. Nguyễn Nể không bị Đặng Trần Thường đem ra Văn Miếu đánh đòn như Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích, Nguyễn An Lịch.. nhưng năm 1805 về Hà Tĩnh thì bị tri phủ Trần Văn Chiêu tuy bức, ông uất ức mà chết.  Nguyễn Du vợ mất năm 1804 để lại một con Nguyễn Tứ.

NIÊN BIỂU NGUYỄN DU

1766. Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tính ra dương lịch là ngày 3-1-1766, mới đúng. (Các tài liệu cũ đều lầm lẫn khi viết Nguyễn Du sinh năm 1765).

1771  Cha là Nguyễn Nghiễm xin về hưu trí sĩ, được gia thăng chức Đại Tư Đồ. Chúa Trịnh cấp cho xe bồ, ngựa tứ và thuyền hãi mã đưa về làng. Nguyễn Du theo cha về. Nguyễn Nghiễm lại được gọi ra làm quan Tham Tụng.

1774. Nguyễn Nghiễm được sung chức Tả Tướng cùng Hoàng Ngũ Phúc đánh Chúa Nguyễn ở Đàng Trong.

1776 Nguyễn Nghiễm bị nhiễm bệnh dịch cùng hàng ngàn quân sĩ, đưa về quê dưỡng bệnh và mất tại Hà Tĩnh 7 tháng 11 Ất Mùi (7-1-1976). Được truy tặng tước Huân dụ Đô hiến đại vương, Thượng đẳng phúc thần.

1778 Bà Trần thị Tần (1740-1778) mẹ Nguyễn Du qua đời ngày 20-7-1978.

1780 Trong vụ án Canh Tý. Anh cả Nguyễn Khản (1734-1786) thầy dạy Trịnh Tông bị khép tội mưu loạn cùng Trịnh Tông, được tha chết nhưng bãi chức, giam ở nhà Châu Quận công. Nguyễn Du về Tiên Điền học với chú Nguyễn Trọng.

1782. Chúa Trịnh Sâm mất, Trịnh Tông nối ngôi Chúa, cử Nguyễn Khản làm Thượng Thư bộ Lại, tước Toản Quận công.

1783 Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, Nam Định đậu tam trường. Nguyễn Khản thăng Thiếu Bảo, cuối năm thăng Tham Tụng kiêm trấn thủ Hưng Hóa, Thái Nguyên. Cử Nguyễn Du làm Chánh Thủ Hiệu quân Hùng Hậu Hiệu cai quản đội quân tinh nhuệ nhất Thái Nguyên. Cai Gia Nguyễn Đăng Tiến tước Quản Vũ Hầu vốn là tay giặc già, phản Thanh phục Minh Trung Quốc, gốc người Việt Đông, là tân khách (thủ hạ) dưới trướng, thầy dạy võ cho Nguyễn Du và các anh em được giao quyền Trấn thủ Thái Nguyên, nơi có nhiều người Trung Quốc sang khai mỏ bạc. Nguyễn Nể(1761-1805) đỗ tứ trường trường thi Hương Phụng Thiên, Hà Nội, Nguyễn Khản phong làm Cai quản đội quân Phấn Nhất trong phủ Chúa.

1784 Nhân vụ 7 kiêu binh bị nhà chúa giết vì bữa tiệc vua Lê đãi kiêu binh có công phò Hoàng Tự Tôn Lê Duy Kỳ từ trong tù ra, kiêu binh nổi loạn đốt phá dinh thự Bích Câu. Nguyễn Khản chạy trốn lên Sơn Tây với em Nguyễn Điều (1745-1786), trấn thủ Sơn Tây, Nguyễn Nể phụ tá làm Hiệp tán Nhung vụ,họ toan hợp quân các trấn về đánh kiêu binh, nhưng kiêu binh giữ chặt chúa Trịnh Tông nên âm mưu bất thành. Kiêu binh áp lực bãi chức Nguyễn Khản và giáng chức Nguyễn Điều, hai người về Hà Tĩnh. Nguyễn Điều về huyện Thanh Chương lập nhà ở đấy, khi nghe nhà Trịnh mất, ông uất ức mà chết năm 1786.

1786 Tây Sơn ra Bắc,  Nguyễn Khản từ Hà Tỉnh  theo ghe mành ra Bắc  giúp chúa Trịnh chủ trương đóng quân theo lối vẩy sộp (theo Lê Quý Kỷ sự) , nhưng kiêu binh vu cáo ông rước giặc Tây Sơn về. Nguyễn Khản phải bỏ chạy, ông mất trong hoàn cảnh đó, thi hài được đưa về an táng tại Hà Tĩnh.

1787 Nguyễn Du, Nguyễn Quýnh cùng Cai Gia Nguyễn Đăng Tiến, quyền trấn thủ Thái Nguyên khởi nghĩa tại Tư Nông thất bại, bị bắt và cùng được Vũ Văn Nhậm tha chết. Họ đi sang Vân Nam. Nguyễn Quýnh quay trở về Hồng Lĩnh khởi nghĩa bị bắt và bị giết năm 1791 tròn 30 tuổi,  dinh thự và làng Tiên Điền bị đốt sạch.

1787. Đến Vân Nam, Nguyễn Du bị bệnh ba tháng mùa xuân. Hết bệnh, họ đi Liễu Châu và chia tay, Nguyễn Đại Lang về thăm quê nhà vùng Quế Lâm, cao sơn lưu thủy. Nguyễn Du đi giang hồ ba năm ở Trung Quốc trong áo mũ nhà sư mang danh Chí Hiên, từ Quảng Tây theo thuyền đi dọc sông và Hồ Động Đình đến Hán Khẩu, rồi theo sông Hán rồi lên Trường An viết bài Dương Quý Phi, Bùi Tấn Công mộ, Phân Kinh thạch đài, rồi lại theo kinh Đại Vận Hà đến Hàng Châu .

1790 Tại Hàng Châu Nguyễn Du cư ngụ tại chùa Hổ Pháo bên Tây Hồ, nơi Từ Hải tức Minh Sơn Hoà thượng từng tu hành, trước khi đi giang hồ thành cướp biển. Tại đây Nguyễn Du có được bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Gặp lại Nguyễn Đại Lang tại miếu Nhạc Phi cũng bên cạnh Tây Hồ, (nơi đây Nguyễn Du viết 5 bài thơ, một bài Nhạc Phi, hai bài Tần Cối và hai bài Vương Thị), sau đó hai người đi Yên Kinh (gặp vua Lê Chiêu Thống), trở về Hoàng Châu thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn sứ đoàn Tây Sơn tại một lữ quán, gặp bạn văn chương, Nguyễn Du bàn chuyện sôi nổi về Hồng nhan đa truân. Đoàn Nguyễn Tuấn viết hai bài thơ tặng văn nhân họ Nguyễn. Nguyễn Du về Long Châu và trở về Thăng Long.

1790-1793. Nguyễn Du về ở với anh Nguyễn Nể, đang làm quan Tây Sơn tại Bắc Thành giữ chức Hàn Lâm thị thư, sung chức Phó sứ tuế công, năm 1791 đi sứ về, đã xây dựng lại một phần dinh thự Bích Câu, tại đây Nguyễn Du nghe cô Cầm, người nhạc nữ cũ cung vua Lê đánh đàn. Nhưng Nguyễn Du thường ở gác tía, nơi câu cá anh Nguyễn Khản cạnh đền Khán Xuân. Tại đây Nguyễn Du quen biết Xuân Hương Hồ Phi Mai, mối tình ba năm.

1794. Nguyễn Nể được triệu về Phú Xuân thăng chức Đông Các Đại Học Sĩ, gia tăng Thái Sử Tả Nghị Lang, chức vụ thầy dạy vua Cảnh Thịnh. Nguyễn Nể giao phó cho hai em Nguyễn Du và Nguyễn Ức tiền bạc để về Tiên Điền xây dựng lại từ đường và làng Tiên Điền. Về Phú Xuân, quyền hành nhà Tây Sơn trong tay Thái sư Bùi Đắc Tuyên, cậu vua Cảnh Thịnh, Thái sư đày Quân sư Trần Văn Kỷ ra Hoàng Giang làm lính thú. 1795  Nguyễn Nể xin ra Quy Nhơn vừa mới lấy được từ vua Trung Ương  Nguyễn Nhạc, trấn đóng để tránh xa xung đột triều đình, cuối năm được cử làm Chánh Sứ (Hành Khánh Sứ) lễ bộ mừng lễ truyền ngôi vua Càn Long cho vua Gia Khánh.

1794-1796. Nguyễn Du về Tiên Điền, bị bệnh ba tháng cuối năm. Ở nhà cạnh  Giang Đình bến sông để tiếp nhận  mua gỗ đá, vật liệu chở bằng thuyền.  Nguyễn Ức vẽ kiểu và chỉ huy thợ xây cất. Nguyễn Du trao đổi thơ với Hồ Xuân Hương. Nguyễn Du đi săn làm Hồng Sơn liệp hộ. Nguyễn Du có vào Phú Xuân thăm anh và nhận một món tiền khác.

1796. Công việc xây dựng tạm xong. Nguyễn Du làm Nam Hải Điếu đồ, người đi câu biển Nam Hải toan theo thuyền về Nam. Lúc này chúa Nguyễn Ánh đã đánh chiếm đến thành Diên Khánh (Nha Trang). Nguyễn Du bị quận công Nguyễn Văn Thận trấn thủ Hà Tĩnh bắt giam mười tuần. Nguyễn Du trở ra Thăng Long thì hay tin Hồ Xuân Hương đã đi lấy chồng thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nguyễn Du viết hai bài thơ ký tên Chí Hiên oán trách nàng tệ bạc. Hồ Xuân Hương vẫn trân trọng chép trong Lưu Hương Ký. Nguyễn Du sang nhà Đoàn Nguyễn Tuấn, anh Nguyễn Nể  cũng vừa đi sứ về được thăng chức Hữu Trung Thư, chức vụ quân sư cho vua Cảnh Thịnh, trước biến loạn triều đình Nguyễn Nể xin ra xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An thay Trần Quang Diệu.

1797-1801  Nguyễn Nể cùng Đoàn Nguyễn Tuấn tác thành hôn nhân cho Nguyễn Du cùng Đoàn Nguyễn Thị Huệ và giao cho gia trang ở Quỳnh Hải. Từ đây Nguyễn Du có vợ con sống hạnh phúc chấm dứt cuộc đời gió bụi. Nguyễn Du hoàn tất Truyện Kiều, dạy văn, dạy võ chiêu tập thủ hạ tại Quỳnh Hải.

1801 Nguyễn Nể được lệnh vua Cảnh Thịnh đưa La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp vào chầu, còn ở Phú Xuân thì kinh đô thất thủ. Nguyễn Nể và La Sơn Phu Tử được vua Gia Long gọi ra. Nguyễn Nể dâng sớ được trọng dụng khen thưởng và cho theo xe vua ra Bắc chỉ dẫn nghi lễ cho sứ đoàn ngoại giao Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức đi sứ. Nguyễn Thiếp được cho về quê quán.

1802. Vua Gia Long ra Bắc truy lùng vua Tây Sơn Cảnh Thịnh. Nguyễn Du dẫn học trò, tráng đinh mang lương thực, bò, ngựa từ Quỳnh Hải đón đường đi gặp vua Gia Long, đến huyện Phù Dung thì gặp vua, vua phong ngay làm tri huyện Phù Dung. Việc này tương tự với Phi Tử đời Chiến Quốc  dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương được chức Phụ Dung, nên Nguyễn Du có danh hiệu là Phi Tử, Nguyễn Hành bài Đi Săn có nhắc đến danh hiệu này.

1803. Làm Tri huyện được mấy tháng nhờ tài nói lưu loát ngôn ngữ Trung Quốc trong thời gian đi giang hồ và tài năng ứng đối thi ca. Nguyễn Du được thăng Tri phủ Thường Tín lên Lạng Sơn đặc trách tiếp sứ sang phong vương cho vua Gia Long cùng Tri phủ Thượng Hồng Trần Quý Chuyên. Tri phủ Thiên Trường Ngô Nguyên Viễn, Tri phủ Tiên Hưng Trần Lưu. Thơ tống tiễn do Nguyễn Du viết.

1804. Xong việc ngoại giao tiếp sứ, Nguyễn Du trở về Thường Tín, vợ mất để lại một con Nguyễn Tứ. Nguyễn Du cáo bệnh xin nghĩ một tháng về quê. Nguyễn Du tìm về Cổ Nguyệt Đường mong nối lại duyên xưa thì Hồ Xuân Hương đang làm lẽ Cai Tổng Cóc Nguyễn Công Hòa ở Vĩnh Yên, nàng đau ốm tâm sự như nàng Tiểu Thanh. Bên song cửa Nguyễn Du viết bài Độc Tiểu Thanh Ký gửi Hồ Xuân Hương và tự hỏi : Ba trăm năm lẽ nữa ai khóc người phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh. Đó là lý do bài Độc Tiểu Thanh Ký nằm cuối Thanh Hiên thi tập, và hai chữ tố như chỉ có nghĩa là người phẩm hạnh cao quý như thế (như nàng Tiểu Thanh).

1805 Nguyễn Du được thăng Đông Các học sĩ, hàm ngũ phẩm, tước Du Đức hầu vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân. Chức vụ dâng sách cho vua Gia Long đọc mỗi ngày. Nguyễn Nể về quê bị Tri phủ Trần Văn Chiêu truy bức ông uất ức mà chết.

1807 Làm giám khảo trường thi Hương, Hải Dương.

1808 Mùa thu, xin về quê nghỉ.

1809 Đầu năm được bổ làm Quan Cai Bạ (Trấn thủ) doanh Quảng Bình, một trong bốn doanh đất kinh kỳ,  hàm tứ phẩm.

1812 Cuối năm Nguyễn Du xin về quê xây mộ cho anh Nguyễn Nể, được hai tháng thì có chiếu chỉ triệu vào kinh.

1813 Thăng Cần Chánh điện học sĩ và được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc. viết Bắc Hành tạp lục.

1815 Thăng Hữu Tham tri Bộ Lễ hàm Tam phẩm.

1816 Kết thúc vụ án Nguyễn Văn Thuyên. Trung Quân thống lĩnh toàn quân đội Nguyễn Văn Thành tự tử. Anh rễ Nguyễn Du, Tiến sĩ Vũ Trinh thầy dạy Nguyễn Thuyên bị giam hậu và đày đi Quảng Nam 12 năm. Vụ án Binh bộ Thượng Thư Đặng Trần Thường, vụ án Trần Phúc Hiển chồng Hồ Xuân Hương.

1818. Trần Phúc Hiển bị xử tử,  Hiệp trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán, thi tướng Tao Đàn Cổ Nguyệt Đường chết, có lẽ tự tử.

1819 Được cử làm Đề Điệu Trường Thi Quảng Nam, Nguyễn Du dâng biểu cố từ được vua chuẩn y.

1820. Gia Long mất, Minh Mệnh lên ngôi cử Nguyễn Du làm Chánh sứ đi báo tang và xin thụ phong; Chưa kịp đi thì bị bệnh dịch mất ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức ngày 16-9-1820. Ngô Thời Vị làm Chánh sứ thay thế.  Thi hài  Nguyễn Du được an táng đồng Bầu Đá, xã An Ninh, huyện Quảng Điền Thừa Thiên. Năm 1924 con là Nguyễn Ngũ cải táng đưa về làng Tiên Điền.

ĐÍNH CHÁNH NHỮNG SƠ SÓT

Đọc sách anh Hoàng Khôi, tôi xin nhặt ra những sơ sót, và bổ túc thêm những chi tiết, mong rằng anh sẽ chữa lại, mài dũa thêm viên ngọc quý để trở thành một tác phẩm hoàn hảo tuyệt tác, nếu có thì giờ viết thành kịch bản truyện phim cũng nên.

Trang 14, Trấn Sơn Nam thời Lê, đến đời Gia Long được chia làm Sơn Nam Thượng đặt trị sở tại Châu Cầu. Sơn Nam Hạ đặt trị sở tại Nam Định.  Sang năm 1831 đời Minh Mạng  chia Sơn Nam Thượng gồm hai tỉnh Hà Nội và tỉnh Hưng Yên. Sơn Nam Hạ chia làm hai  tỉnh Nam Định và Thái Bình.

Đời Gia Long, Bắc Thành có 11 trấn : gồm 5 nội trấn là Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ. 6 ngoại trấn là : Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hưng Hóa, Yên Quảng. Ngoài ra có hai đạo Thanh Bình (Ninh Bình) và Hoà Bình và phủ Hoài Đức gồm Thăng Long và vùng phụ cận. Do đó Ninh Bình và Thăng Long đời Gia Long về trước, không thuộc về Sơn Nam.

Trang 18. Bà Đặng Thị Thuyết (không phải Tuyết) sinh mẫu Nguyễn Điều, em bà chánh thất Đặng thị Dương. Bà Nguyễn Thị Xuân quê Bắc Ninh, sinh mẫu NguyễnTrứ, Nguyễn Nghi  thay vì bà Hồ Thị Ngạn ( là sinh mẫu Nguyễn Nhưng, thay vì Nguyễn Nhung).

Mẹ Nguyễn Du là Trần Thị Tần, con người thuộc hạ làm chức Câu kế lo việc kế toán, quản gia cho cụ Nguyễn Nghiễm, quê làng Hoa Thiều họ này có hai người đỗ Tiến Sĩ, bà Tần là vợ thứ ba có con đông nhất (Nguyễn Trụ, Nguyễn Nể, Nguyễn Thị Diên, Nguyễn Du, Nguyễn Ức) . Do đó tôi nghĩ mẹ Nguyễn Du là người có thế lực trong gia đình, chứ không phải là mối tình qua đường, số phận người hầu, con mọn như anh Hoàng Khôi viết ? Theo phong tục ngày xưa bà chánh thất thường do cha mẹ hỏi cưới để làm dâu phụng thờ cha mẹ, cai quản gia trang nguyên quán, bà thứ hai do bà cả cưới cho chồng, thường là em hay họ hàng của mình để “làm bạn” cho mình. Bà ba là người được chồng lựa chọn, theo chồng đi khắp các nơi trấn nhậm và được chồng yêu thương nhất, có nhiều quyền hành nhất và có con đông nhất. Cụ Nguyễn Nghiễm có tám bà vợ và 21 người con.  Thường các gia đình quan lớn ngày xưa, bà chánh thất giữ sổ sách kế toán và tiền bạc cho một gia trang khoảng 50 người, vừa các bà, con cái người hầu, người bảo vệ, tân khách, thầy dạy văn, dạy võ…. Trong trường hợp bà cả quê mùa không biết tính toán mới có người làm câu kế.

Trang 30. Nguyễn Du không thể về  Hải An, Quỳnh Hải học với cha vợ là Đoàn Nguyễn Thục năm 1782, năm Nguyễn Du 16 tuổi vì ông Đoàn Nguyễn Thục sinh năm 1718 và mất năm 1775. Thời gian 1780- 1782 Nguyễn Khản bị phải vụ án Trịnh Tông, nên bị giam lỏng, chúa nghĩ tình bạn cũ tha không giết, do đó Nguyễn Khản không thể cưới vợ cho em, người trụ cột trong gia đình như thế, thì còn vui gì mà lấy vợ. Nguyễn Du về Hồng Lĩnh học với chú là Nguyễn Trọng. Trong bài thơ Tặng Thực Đình năm 1794 có câu : La Thành nhất biệt thập niên thâm. Một biệt La Thành đã chục năm. Nguyễn Du có bạn ở thành Nghệ An trước năm 1783, sau đó Nguyễn Du ra thi Hương trường Sơn Nam, Nam Định, đỗ Tam Trường (đỗ trường  thi, phú, chiếu biểu và hỏng kỳ tứ trường thi văn sách). Năm 1783 Nguyễn Du không thể vừa trấn đóng Thái Nguyên, vừa ở quê vợ Quỳnh Hải ?

Trang 98 bài biệt Nguyễn Đại Lang  hai câu Tống quân quy cố khâu, Ngã diệc phù Giang Hán (Tiễn anh về quê cũ, Tôi sang sông Hán đây) Nguyễn Du tiễn Nguyễn Đại Lang về quê cũ vùng Quế Lâm nơi cao sơn lưu thủy, vùng Việt Đông nơi quê hương người Choáng, (Tráng) người Việt cổ thời Việt Vương Câu Tiễn và Triệu Đà, ngày nay còn 15 triệu người vẫn còn giữ tiếng nói. Và cho biết mình sẽ sang sông Hán để đi Trường An. Giáo sư Nguyễn Huệ Chi dịch thành Tiễn anh về núi cũ, tôi cũng trẩy sang sông, bỏ sót mất địa danh Giang Hán.

Hai câu : Sinh tử giao tình tại, Tồn vong thổ tiết đồng cho biết Nguyễn Du có kết nghĩa sinh tử với Nguyễn Đại Lang, cùng khởi nghĩa bị bắt và được tha.

Trang 109, 114,115 hai bài Sơn Thôn và Sơn Cư Mạn Hứng tả cảnh Vân Nam nơi non sâu lớp lớp, Trưởng giả còn ăn mặc theo nhà Hán, ở trong núi (lịch theo Tây Tạng) không theo lịch nhà Tần. Phạm Tú Châu dịch áo mũ người già và lịch năm trong túi không đúng.  Ông Quách Tấn dịch  câu Nam khứ Trường An thiên lý dư (Phía Nam ngàn dậm cách Trường An), thành Ngoảnh lại trời Nam khuất Đế thành không đúng. Vì ông không nghĩ Vân Nam cách Trường An ngàn dậm. Nếu Trường An là Thăng Long hay Phú Xuân thì Nguyễn Du không thể ở cách hơn ngàn dậm phía Nam. Bài Thu Chí câu Tuyết ám cùng thôn hiểu giác ai (Tuyết xuống làng xa não tiếng tù) ông Phạm Khắc Khoan, Lê Thước dịch Cõi sớm làng xa tuyết phủ đầy, thiếu tiếng tù nghe ai oán, não ruột và tù và là một nhạc khí thường dùng ở Vân Nam. Cảnh tuyết này không thể ở vùng Quảng Tây được.

Trang 105, 106 bài Thôn dạ Nguyễn Du viết ở Hồng Lĩnh câu Niên niên kết đắc ngư tiều lữ – Ngư tiều là bạn quanh năm đó, Nguyễn Du đang đi giang hồ không thể kết bạn với ngư tiều quanh năm, bài Giang đầu tản bộ viết ở Quảng Bình câu Bất tài đa khủng tốc quan phi – Bất tài quan vẫn sợ đơn sai, không hợp với thời đi giang hồ, chưa làm quan.

Trang 111, 112 bài Pháo Đài: Nam Bắc xa thư khánh đại đồng – Nam Bắc mừng nay cuộc đại đồng, thống nhất Nam Bắc sau Trịnh, Nguyễn phân tranh,  trong Nam Trung Tạp ngâm, Nguyễn Du làm lúc làm quan Cai Bạ (Trấn Thủ) ở doanh Quảng Bình, chép vào cảnh lúc Nguyễn Du đi giang hồ ở Trung Quốc không đúng.

Trang 116 bài , Thu dạ II Nguyễn Du trả lời họa bài Thu Vũ của Hồ Xuân Hương, Xuân Hương khóc khi nghe tin Nguyễn Du bị bệnh ba tháng cuối năm ở Hồng Lĩnh (Xem Phạm Trọng Chánh. Đi tìm Cổ Nguyệt Đường và mối tình Nguyễn Du – Hồ Xuân Hương site Vanhoanghean).

Trang 123 Nguyễn Du đọc Kinh Kim Cương nghìn lượt (Bài Phân Kinh Thạch đài), vì thời bấy giờ, Lê Quý Đôn có viết quyển Kinh Kim Cương chú giải, được trí thức Bắc Hà yêu chuộng, được nhà chùa Thăng Long khắc bản in. Lê Quý Đôn nhà bác học, là một thần tượng thời bấy giờ, khi mất được chúa Trịnh để tang bãi chầu ba ngày, việc hiếm có. Nguyễn Du tất có bên mình quyển Kinh của Lê Quý Đôn chú giải. Trên bước đường giang hồ đi Trung Quốc, Nguyễn Du đọc Kinh Kim Cương nghìn lượt, tức là ba năm, ngày đi du lịch tối về một ngôi chùa trên đường đi tụng kinh làm công quả, nhà chùa thết đãi món chay rau đậu. Đây là một chi tiết khá thú vị.

Trang 163, năm 1790, Nguyễn Du đọc Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ở Hàng Châu, lúc đó Nguyễn Du mới 24 tuổi, chưa đến tuổi “tam thập nhi lập”.

Trang 170, Nguyễn Nể có hai lần đi sứ. Lần thứ nhất năm 1789 sứ bộ đầu tiên của Tây Sơn, Vũ Huy Tấn Chánh sứ, Nguyễn Nể làm Phó sứ. Vũ Huy Tấn đi sứ lần thứ nhất trở về, lại ở trong sứ đoàn đi sứ lần thứ hai năm 1790. Theo học giả Thái Văn Kiểm, Nguyễn Nể đi sứ đến năm 1791 mới về, (trong bài Nguyễn Du đi sứ, Việt Nam Gấm Hoa, Làng Văn Canada xb 1797 tr 101). Khi sứ thần nhà Thanh sang Thăng Long phong vương cùng năm, có cả Nguyễn Nể và Đoàn Nguyễn Tuấn tiếp rước, Đoàn giới thiệu với các sứ thần nhà Thanh: Quế Hiên Nguyễn Nể là đỉnh cao thi trận nước Nam. Lần thứ hai năm 1795 làm Chánh Sứ (Hành Khánh sứ) sang mừng lễ vua Càn Long truyền ngôi cho con là Gia Khánh. Có thể Nguyễn Nể có trong sứ bộ năm 1790 do Phan Huy Ích làm Chánh sứ, có Đoàn Nguyễn Tuấn, đoàn có 158 người, có ông vua Quang Trung giả do Phạm Công Trị đóng vai và hoàng tử Quang Thùy. Như thế Nguyễn Nể đi sứ ba lần chăng?

Nguyễn Công con Nguyễn Khản và Nguyễn Thiện con Nguyễn Điều có tham gia Sùng Chính Viện của Nguyễn Thiếp. Nguyễn Nhưng, đậu Tứ Trường đời Lê, đời Tây Sơn có ra làm Trấn Thủ Sơn Tây  thay thế Nguyễn Công Tấn thân phụ Nguyễn Công Trứ năm 1801. Nhà Nguyễn lên ông ở ẩn làm nghề thuốc.

Trang 171 Hai bài thơ Đoàn Nguyễn Tuấn tựa : Chí Hoàng Châu thích Nguyễn khế văn tự Yên Kinh hồi tẩu bút tặng chi. Đến Hoàng Châu thì vừa vặn gặp người bạn văn chương họ Nguyễn từ Yên Kinh trở về bèn phóng bút làm thơ tặng. Bài tựa chứng tỏ Nguyễn Du đã lên Yên Kinh và trở về. Sự kiện vua Lê Chiêu Thống và các quan lại đi theo muốn nhà Thanh làm áp lực để xin đất Thái Nguyên, Tuyên Quang mà không xin đất Cao Bằng như nhà Mạc, chứng tỏ đã gặp cựu trấn thủ Thái Nguyên Nguyễn Đăng Tiến.

Trang 178, Bài Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang, đặt Nguyễn Du chia tay cùng Nguyễn Đại Lang tại Hoàng Châu không đúng vì có địa danh Liễu Cao Lâm. Liễu Châu ở vùng rừng cao nguyên, nơi sản xuất gỗ nam mộc đóng hòm rất tốt, giữ thi thể rất lâu (Trung Quốc có câu : sống ở Hàng Châu, cưới vợ Tô Châu, ăn ở Quảng Châu và chết ở Liễu Châu). Từ Vân Nam vùng núi, về đến Liễu Châu vùng cao nguyên, đến Quế Lâm là đồng bằng. Trong thơ Nguyễn Du, Tây phong thường ám chỉ quân Tây Sơn:  Vì quân Tây Sơn ra Bắc cho nên chúng ta lưu lạc nơi chốn rừng cao nguyên Liễu Châu, Tây phong qui tụ Liễu rừng cao. Ông Trương Chính trong Thơ  Chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn Học 1965, vì không nghĩ đó là địa danh, nên cho rằng câu thơ không đúng cú pháp, ông chữa thành :Tây phong tiêu táp phất cao lâm, Gió Tây thổi qua ống tay áo phơ phất cành liễu. Ông Đào Duy Anh giữ nguyên nhưng dịch thành Rừng liễu ra về buổi gió Tây. Chữ ra về ngược lại với nghĩa chữ qui tụ.

Trang 181, Đoàn Nguyễn Thục mất năm 1775, 57 tuổi, năm 1790 Đoàn Nguyễn Thị Huệ 16 tuổi, mồ cô cha lúc một tuổi, có thể con thứ thiếp, được anh cả Đoàn Nguyễn Tuấn nuôi dưỡng và kết hôn cùng Nguyễn Du năm 1796,  21 tuổi.

Trang 214, cụ Đồ Diễn đã mất năm 1786, thọ 83 tuổi. Do đó năm 1790 -1793, ba năm mối tình Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, thì cụ Đồ Diễn không còn nữa. Hồ Xuân Hương nếu sinh năm 1772 lúc đó đã 18 – 21 tuổi với tài hay chữ có thể đã dạy trẻ học vỡ lòng. Văn bản Landes, Lê Quý chép thường tả Hồ Xuân Hương đi đâu cũng có 5, 7 đứa hầu gái, có lẽ là học trò. Làng Nghi Tàm sau khi cụ Đồ Diễn có Tử Minh tức Cả Tân học trò cụ Đồ Diễn dạy học, Tử Minh mất 40 tuổi năm 1811, Hồ Xuân Hương sau mười năm phong trần : Thập tải phong trần quán nhỉ linh, mười năm phong trần như ăn trộm bịt tai đi trộm chuông (lấy lẽ Cai Tổng Cóc, trở về mở hiệu sách, rồi đi buôn, vì tình bất an vùng Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ do loạn Đặng Trần Siêu, Võ Đình Lục thường chặn đường cướp bóc các thương nhân, nàng thôi đi buôn). Làng Nghi Tàm mời Xuân Hương  thay Tử Minh dạy học. Học trò các lớp thi Hương sang học với ông nghè Phạm Quý Thích. Nguyễn Thị Hinh tức Bà Huyện Thanh Quan, sinh sống cùng làng Nghi Tàm, học với Hồ Xuân Hương sau đó học với Tiến Sĩ Phạm Quý Thích cùng thời với Phương Đình Nguyễn Văn Siêu.

Trang 234 : năm 1774 cụ Nguyễn Nghiễm cầm quân dẹp loạn vùng Hội An, điều này không đúng. Đó là cuộc chiến lớn chấm dứt Trịnh Nguyễn phân tranh sau hơn 200 năm. Nhân tại Phú Xuân, Trương Phúc Loan chuyên quyền, Tây Sơn nổi dậy đánh phá chiếm từ Bình Định tới Diên Khánh. Chúa Trịnh Sâm biết như vậy bèn sai đại tướng là Hoàng Ngũ Phúc, cùng Nguyễn Nghiễm làm Tả Tướng quân đem thủy bộ 3 vạn quân cùng Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Thể, Hoàng Đình Bảo vào đất Bố Chính để đánh họ Nguyễn, giả vào đánh Trương Phúc Loan. Các quan ở Phú Xuân bèn bắt Phúc Loan đem nộp. Nhà Trịnh thừa cơ chiếm lấy Phú Xuân, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem sắc phong cho Nguyễn Nhạc trấn thủ đất Quảng Nam. Các chúa Nguyễn,Thái Thượng Vương và Tân Chính Vương bị Nguyễn Huệ đuổi bắt và giết chết, chỉ còn Nguyễn Ánh 17 tuổi chạy thoát. Trong trận này quân nhà Trịnh hàng ngàn người bị bệnh dịch. Cụ Nguyễn Nghiễm cũng nhiễm bệnh đưa về quê quán Tiên Điền dưỡng bệnh. Năm 1776 cụ mất tại quê nhà.

Trong tình hình đọc sách hiện tại trong nước và hải ngoại, mỗi người Việt Nam đọc không đến một quyển sách một năm, các nhà xuất bản tại hải ngoại chỉ sống nhờ sự hy sinh của tác giả, tự viết tự bỏ tiền in, không kể gì lời lỗ. Sách gửi đi các nơi không hy vọng gì thu tiền lại. Trong nước sách in được 1500 quyển như  Nguyễn Du trên đường gió bụi anh Hoàng Khôi là thuộc loại khá. Đáng cho chúng ta khuyến khích. Phải chăng vì thiếu sách hay, các nhà văn ngày nay không đủ sức hấp dẫn lôi kéo người đọc chăng. Nghĩ lại ngày xưa thời Tự Lực Văn Đoàn, Thơ Mới, những năm 1930-1940 mỗi năm người đậu Tú Tài chỉ vài chục người, người biết chữ quốc ngữ có là bao nhiêu trên 25 triệu dân thế mà sách  đã tạo ra những trào lưu văn học lớn mạnh. Ngày nay chúng ta có 90 triệu dân trong nước và 4 triệu người Việt hải ngoại, mà tình hình sách vở còn thua các nước nhược tiểu, nghĩ thật đáng buồn. Chúng ta không nâng cao được dân trí, mà dân trí lại thụt lùi.  Được một nhà văn như anh Hoàng Khôi, hy sinh thức đêm thức hôm để viết sách, để mua vui một vài trống canh, tôi mừng và mong có nhiều người như anh Hoàng Khôi. Đừng để các thế hệ mai sau không còn biết viết văn, biết đọc mà chỉ còn biết bấm mấy câu vớ vẫn trên điện thoại di động.

Paris 9-11-2013

Từ khóa:

CÁC BÀI VIẾT LIÊN QUAN:

Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam