Lời nói đầu
Tập thơ Nguyễn Du Thi Thánh Việt Nam xuất hiện đầu tiên vào tháng 6 năm 2007 dưới dạng feuilleton – truyện thơ hàng ngày – trên chuỗi thư điện tử của nhóm Cựu học sinh Trường Blaise Pascal Đà Nẵng và liền sau đó trên Diễn đàn Thơ văn của Yahoo. Tôi dự định viết về cuộc đời của đại thi hào Nguyễn Du, một nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, bằng cách sử dụng thi ca do ông sáng tác làm nguồn tư liệu chính để tìm hiểu về tình cảm, tâm tư và nhân sinh quan của tác già .
Cách làm việc của tôi là sưu tầm đến đâu thì viết đến đó. Tôi dựa vào những tài liệu được cung cấp qua mạng thư điện tử. Ngoài ra, tôi còn tham khảo một số sách vở hiện nay rất hiếm hoi đề cập đến đại văn hào Nguyễn Du. Khi bắt tay vào việc tôi mới nhận ra rằng các dữ kiện liên quan đến cuộc đời của thi hào rất thiếu thốn, đôi lúc lại mâu thuẫn gây hoang mang ngờ vực. Ví dụ như về ngày sinh của Nguyễn Du thì chủ yếu có hai thuyết. Thuyết thứ nhất là sinh năm 1765 nhưng không nêu rõ ngày nào. Nguồn dữ liệu thứ hai dựa theo gia phả của dòng họ Nguyễn Tiên Điền thì Nguyễn Du chào đời vào ngày 23 tháng 11 năm Ất dậu Âm lịch, nhằm ngày 3 tháng Giêng năm 1766 Dương Lịch. Tuy nhiên, trên các văn bản chính thức thì đều ghi năm sinh của Nguyễn Du là 1765. Chính vì thế mà UNESCO, Tổ chức Giáo Dục, Khoa Học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc, khi vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân Văn hoá và Nhà thơ Nhân loại đã làm lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh của đại thi hào Việt Nam vào năm 1965.
Ngoài ra một số chi tiết quan trọng khác trong cuộc đời của Nguyễn Du thì chẳng thấy được đề cập trong một tài liệu văn học nào cả, thí dụ như cuộc đi sứ sang Trung Quốc kéo dài hơn năm trời. Còn điều đáng nghi ngờ nhất là tâm sự hoài Lê mà hầu hết sách giáo khoa nào cũng gán ép cho thi hào này. Không có tài liệu văn học, sử học nào cho thấy bản thân Nguyễn Du đã nói lên lời thương xót chế độ Lê mạt. Do đó để tìm hiểu tâm tư, tình cảm cũng như cuộc đời của Nguyễn Du thì tốt nhất theo thiển ý là nên tìm hiểu qua phân tích nội dung những tác phẩm văn học của đại thi hào để lại .
Đó là một trong những lý do khiến tôi muốn sưu tập toàn bộ sáng tác của Nguyễn Du trong đó bao gồm các loại thơ Nôm và Hán-Việt. Học giả Mai Quốc Liên có lần viết: "Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa". Khi bắt đầu đọc thơ văn Hán-Việt của Nguyễn Du, trong lòng muôn phần kính phục, tôi nhận ra rằng đây là một kho tàng vô giá về mặt văn học mà giá trị không kém phần đặc sắc như truyện Kiều. Do đó tôi đã quyết định phiên dịch toàn bộ 250 bài thơ đã sưu tầm ra thể thơ lục bát để quí vị độc giả yêu thơ thưởng thức. Lần tái bản này có thêm bản dịch mới theo đúng khổ thơ của nguyên tác với hy vọng sẽ cống hiến cho độc giả những bản dịch chuẩn xác hơn cả về mặt ngữ nghĩa lẫn âm điệu.
Chủ đích của tôi khi viết tập thơ này là đánh đổ quan điểm về lòng trung thành tuyệt đối mà người đời vẫn thường gán ép cho Nguyễn Du. Thật khó mà tưởng tượng một nhân vật thông thái và tài trí như Nguyễn Du mà lại đi tôn thờ một ông vua cõng rắn cắn gà nhà, bám víu vào triều đình Mãn Thanh. Theo anh Bắc Giang thì vụ án hoài Lê là hoàn toàn không có cơ sở và là một điều sỉ nhục đối với Nguyễn Du mà thế hê chúng ta cần làm sáng tỏ. Bảo rằng Nguyễn Du hoài Lê thì có khác gì khẳng định là giới trí thức miền nam hoài ông Nguyễn Văn Thiệu hoặc ông Nguyễn Cao Kỳ. Đó là một điều quái đản không thể nào hình dung nổi. Ngoài ra, hoài Lê trong khi phục vụ với triều đình nhà Nguyễn thì có khác gì bất trung và mang tội có ý đồ phản loạn. Đối với một ông vua đa nghi như Gia Long thì tội này ít nhất là lăng trì tùng xẻo hoặc là tru di tam tộc.
Tôi đồng ý với anh Bắc Giang là Nguyễn Du không hoài ai cả - từ vua Lê, chúa Trịnh, Nhà Nguyễn Tây Sơn cho đến ngay cả vua Gia Long. Có hoài chăng là hoài cái bản thân đọa đầy, hoài cái dân tộc Việt Nam liên tục chịu ách chiến tranh, hoài cái kiếp người đắm chìm đau khổ, hoài cái thân phận người đàn bà bị xã hội chà đạp.
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
(Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh)
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
(Truyện Kiều)
Thay vào sự áp đặt quái dị đấy, tôi muốn tôn vinh Nguyễn Du như là một thi hào tài hoa rất mực, được sinh ra trong một giai đoạn lịch sử cực kỳ nhiễu nhương, đầy tình cảm: yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu đất nước và con người. Vì yêu cuộc sống nên căm thù chiến tranh và đấu tranh cho hoà bình. Vì yêu thiên nhiên nên sẵn sàng sống quy ẩn trong rừng sâu vui đùa với hươu nai và cây cỏ. Khi được mời ra làm quan với triều đình Gia Long, Nguyễn Du đã rất mực yêu thương người dân cần cù lam lũ nên thi hào đã sống một cuộc đời nghèo khổ như tuyệt đại đa số quần chúng, một cuộc đời giản dị, thanh liêm và trong sáng như chính lời tác giả trong Ngẫu thư công quán
Đầu hôm ăn một bát cơm
Đến chiều tắm mát một bồn nước trong.
Ngoài ra, tôi muốn thơ mộng hoá Nguyễn Du như một người tình trong mối tình lý tưởng đẹp tựa giấc mơ tiên. Khi thấy thế nước ngã sang một hướng đi khác mà vai trò của mỉnh không còn cần thiết nữa, nhà thơ đã không ngần ngại rửa tay gác kiếm, treo ấn từ quan, quy ẩn giang hồ về vui thú điền viên với người vợ yêu quý để rồi:
Từ nay từ bỏ ganh đua
Bút son mài mực điểm tô chân mày
Tập thơ gồm có bốn phần chính được sắp xếp như sau:
· Cuộc đời: trình bày về cuộc đời của thi thánh Nguyễn Du dưới thể thơ lục bát.
· Thơ Hán-Việt: bao gồm các tập thơ Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm và Bắc Hành tạp lục kèm theo 2 bản dịch: bằng thơ lục bát và bằng khổ thơ nguyên tác.
· Thơ chữ nôm: gồm cóThác lời trai Phường Nón, Văn tế hai cô gái Trường Lưu,Văn tế thập loại chúng sinh và Truyện Kiều dựa trên bản Truyện Kiều, Nôm và Quốc Ngữ, bản Nôm chép tay của Tăng Hữu Ứng
· Thơ văn ca tụng Nguyễn Du: sao lục một số câu đối phúng điếu Nguyễn Du và một ít bài viết vinh danh vị thánh trong làng thơ nước ta.
Ngoài ra có phần phụ lục tóm lược một số sự kiện quan trọng trong cuộc đời của Nguyễn Du, liệt kê các tài liệu tham khảo.
Trong lúc hăng say viết về cụ Nguyễn Du bản thân tôi không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót do trình độ hạn chế. Xin quí độc giả chỉ giáo thêm để tập thơ được chính xác và phong phú hơn trong ẩn bản tương lai. Trước khi dứt lời, tôi xin chân thành cảm tạ các thân bằng quyến thuộc đã tích cực giúp đỡ và khuyến khích tôi hoàn thành tập thơ. Cuối cùng, tôi xin đặc biệt tri ân Nữ sĩ Nguyễn Thu Hương đã không ngừng cổ vũ tôi trong dự án, đồng thời góp ý vào bản thảo tập thơ này.
Mê Sa Cung, 2007
Sparrowgrass, 2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét