31 tháng 1, 2012

Thanh Hiên thi tập - Dưới chân núi Hồng

Nguyên tác ND - Dịch thuật KT 

 

19. Lam giang 


Thanh thần vọng Lam Giang,
Lam Giang trướng thu thuỷ.
Ngư miết du khâu lăng,
Ngưu mã mê nhai sĩ.
Dĩ ngạn băng bạo lôi,
Hồng đào kiến kỳ quỷ
Nguy hiểm thắng nhân tâm,
Khuynh phúc diệc thiên ý.
Ngã vọng Lam Giang đầu
Thốn tâm thường chuỷ thuỷ.
Thường khủng nhất thất túc,
Cốt một vô để chỉ
Như hà thế giai nhân
Thừa yểm bất tri uý ?
Khứ giả hà thoa thao!
Lai giả thượng vị dĩ
Đế đức bản hiếu sinh
Ná đắc trường như thị ?
Nghĩ khu Thiên Nhận Sơn,
Điền bình ngũ bách lý.

藍江
清晨望藍江,
藍江漲秋水。
魚鱉遊丘陵,
牛馬迷涯涘。
圮岸崩暴雷,
鴻濤見奇鬼。
危險勝人心,
傾覆亦天意。
我望藍江頭,
寸心常惴惴。
常恐一失足,
汨沒無底止。
如何世間人,
乘險不知畏。
去者何滔滔,
來者尚未已。
帝德本好生,
那得長如是。
擬驅千仞山,
填平五百里。
Dịch nghĩa
Sông Lam
Sáng sớm, nhìn ra sông Lam,
Mùa thu, nước lên to.
Cá giải bơi trên bờ,
Ngựa trâu lạc mất lối.
Bờ sông lở ầm ầm như sấm,
Sóng dâng lên giống một bầy quỷ.
Thật nguy hiểm hơn lòng người!
Sụt lở cũng do ý trời!
Ta nhìn ra sông Lam,
Lòng những lo ngay ngáy.
Không mau sẩy chân,
Thì chỉm nghỉm xuống tận đáy sâu.
Thế mà sao người thế gian,
Cứ xông pha nơi hiểm nghèo mà không biết sợ?
Kẻ đi tới ào ào,
Người đi lại cũng không ngớt.
Trời vốn có đức hiếu sinh,
Sao để như vậy mãi?
Muốn xô đẩy núi Thiên Nhận xuống,
Lấp bằng năm trăm dặm dòng sông này!

Đầu hôm ngồi ngắm sông Lam
Mùa thu nước lũ cuộn dòng nổi trôi
Cá tôm đùa giỡn bời bời
Ngựa trâu đi lạc chân trời nơi đâu
Lở bờ nước dội ào ào
Ma thiêng quỷ dữ cũng vào dòng sông
Hiểm nguy khiến bị nản lòng
Dòng sông sụp lở thuỷ chung ý trời
Sông lam đứng ngắm nước trôi
Nước sông cuộn chảy rối bời lòng ta
Chẳng may bị sảy chân ra
Chìm sâu đáy nước còn là gì thân
Cớ sao người ở thế gian
Hiểm nguy không sợ thiệt gan cùng mình
Trước đà cất bước nhọc nhành
Sau đà vội vã theo dòng sông xanh
Trời xanh có đức hiếu sanh
Tại sao lại để sông Lam thế này
Thiên sơn ta muốn đem ngay
Lấp bằng sông lại kéo dài đường đi


30 tháng 1, 2012

Than Hiên thi tập - Dưới chân núi Hồng

Nguyên tác ND - Dịch thuật KT

18. Đối tửu 

Phu toạ nhàn song tuý nhãn khai,
Lạc hoa vô số há thương đài.
Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,
Tử hậu thuỳ kiêu mộ thượng bôi ?
Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,
Niên quang ám trục bạch đầu lai.
Bách kỳ đãn đắc chung triêu tuý,
Thế sự phù vân chân khả ai.

對酒
趺坐閒窗醉眼開,
落花無數下蒼苔。
生前不盡樽中酒,
死後誰澆墓上杯。
春色漸遷黃鳥去,
年光暗逐白頭來。
百期但得終朝醉,
世事浮雲真可哀。
Dịch nghĩa
Trước chén rượu
Ngồi trước cửa sổ, rượu vào hơi say mắt lim dim,
Vô số cánh hoa rơi trên thảm rêu xanh.
Lúc sống không uống cạn chén rượu,
Chết rồi, ai rưới trên mồ cho ?
Sắc xuân đổi dần, chim hoàng oanh bay đi,
Năm tháng ngầm thôi thúc đầu bạc.
Cuộc đời trăm năm, chỉ mong say suốt ngày.
Thế sự như đám mây nổi, thật đáng buồn.

Ngồi bên cửa sổ say đời
Tả tơi hoa lá một trời rụng rơi
Ở đời nhất rượu mà thôi
Chết rồi nấm đất ai người rưới đây
Tiết xuân trời đổi chim bay
Tháng năm ảm đạm tóc mây bạc phờ
Trăm năm say khướt ta mơ
Cuộc đời mây nổi thẫn thơ bẽ bàng

Ngồi bên cửa sổ uống say đời
Thảm cỏ rêu xanh lá rụng rơi
Lúc sống rượu đào không uống cạn
Chết rồi nấm đất rưới bao người
Tiết xuân trời đổi chim oanh lánh
Năm tháng ngầm trôi tóc bạc rồi
Ước muốn trăm năm luôn say khướt
Cuộc đời mây nổi chỉ buồn thôi


29 tháng 1, 2012

Thanh Hiên thi tập - Dưới chân núi Hồng

Nguyên tác ND - Dịch thuật KT

17. Ngọa bệnh kỳ 2

Xuân hàn hạ thử cố tương xâm,
Nhất ngọa Hồng Sơn tuế nguyệt thâm.
Minh kính tiểu hàn khai lão sấu,
Sài phi dạ tĩnh bế thân ngâm.
Thập niên túc tật vô nhân vấn,
Cửu chuyển hoàn đan hà xứ tầm?
An đắc huyền quan minh nguyệt hiện,
Dương quan hạ chiếu phá quần âm.

臥病其二

春寒夏暑故相侵,
一臥鴻山歲月深。
明鏡曉寒開老瘦,
柴扉夜靜閉呻吟。
十年夙疾無人問,
九轉還丹何處尋。
安得玄關明月見,
陽光下照破群陰。

Dịch nghĩa
Nằm bệnh bài 2
Xuân lạnh hè nóng cứ quấy nhau mãi,
Vừa về Hồng Lĩnh chốc đã mấy năm rồi!
Buổi sáng soi gương thấy mình gầy và già đi,
Đêm thanh vắng, cửa tre đóng kín, nằm rên.
Bệnh cũ mười năm không ai thăm hỏi,
Tìm đâu ra thuốc tiên luyện chín lần?
Ước gì vầng trăng xuất hiện ngay trước cửa,
Ánh sáng rọi xuống xua đuổi mọi bóng tối!

Xuân hè lạnh nóng phá nhau
Liệt giường ngàn Hống bấy lâu nay rồi
Soi gương gầy sụm bồi hồi
Đêm nằm đóng cửa liên hồi tiếng rên
Bệnh nay đã kéo mười niên
Ở đâu tìm kiếm thuốc tiên bây giờ
Đầu hiên trăng sáng mong chờ
Ánh dương quét sạch tơ vò u mê

Xuân hè lạnh nóng quấy rầy nhau
Hồng Lĩnh xa quê thật quá mau
Buổi sáng soi gương trông già xụm
Ban đêm kín cửa rít rên đau
Mười năm bệnh cũ không ai hỏi
Chín lớp tiên đan biết kiếm đâu
Nằm ước trăng lên ngay trước cửa
Ánh dương quét sạch mọi u sầu


28 tháng 1, 2012

Thanh Hiên thi tập - Dưới chân núi Hồng

Nguyên tác ND - Dịch thuật KT

16. Ngọa bệnh kỳ 1


Đa bệnh đa sầu khí bất thư,
Thập tuần khốn ngọa Quế Giang cư
Lệ thần nhập thất thôn nhân phách
Cơ thử duyên sàng khiết ngã thư
Vị hữu văn chương sinh nghiệt chướng
Bất dung trần cấu tạo thanh hư
Tam lan song hạ ngâm thanh tuyệt,
Điểm điểm tinh thần du thái sơ

臥病其一
多病多愁氣不舒,
十旬困臥桂江居。
癘神入室吞人魄,
饑鼠緣床喫我書。
未有文章生孽障,
不容塵垢雜清虛。
三蘭窗下吟聲絕,
點點精神遊太初。
Dịch nghĩa

Nằm bệnh bài 1
Lắm bệnh hay buồn, tâm thần không được thư thái,
Mười tuần nay, nằm co bên bờ Quế Giang.
Thần ôn vào nhà muốn bắt vía người,
Chuột đói leo giường gặm sách của ta.
Chưa từng có chuyện văn chương sinh nghiệt chướng,
Không để cho bụi bặm lẫn vào nơi trong sạch.
Dưới cửa sổ trồng ba khóm lan, vắng bặt tiếng ngâm,
Tinh thần dần dần về cõi hư không.

Lắm buồn lắm bệnh vật vở
Mười tuần sông Quế nằm lo hãi hùng
Ngỡ đâu thần đã bắt hồn
Sách kinh chuột gặm trong buồng không kiêng
Văn chương là mối nghiệp duyên
Đừng mang cát bụi khí thiêng lẫn vào
Dưới lan ngâm vịnh vài câu
Tinh thần lơ lửng tưởng đâu rồi đời

Lắm bệnh lắm buồn thật ngất ngư
Mười tuần sông Quế sốt thân nhừ
Thần ôn thăm viếng tiêu hồn phách
Chuột đói leo giường gặm sách thơ
Nào có văn chương sinh nghiệp chướng
Chớ mang cát bụi tạo bùn nhơ
Khóm lan bên cửa câu ngâm bặt
Lơ lửng linh hồn đến cõi mơ




Vua Duy Tân

La nuit sur le Fleuve des Parfums


Du soir la tiedeur alanguie
Berce mon ame en sa douleur
Du fleuve la course ralentie
Berce la barque avec douceur

La barque obeit, endormie
Aux coups reguliers du rameur
Mon ame tressaille, meurtrie
Aux coups de la vie dans mon coeur

Et mon ame vogue, alanguie
Au rythme ralenti de mon coeur
Et la barque vogue ralentie
Au rythme alangui du rameur

La lune parait tres palie
Dans sa maladie de langueur
Et repand sa melancolie
Dans la nature et dans mon coeur

Mon ame en sa melancolie
Berce doucement sa douleur
La barque en sa couse ralentie
Berce mon ame en sa langueur

Sa Majeste Duy Tân

Đêm thanh trên dòng Hương giang

Hơi đầm ấm gió thu hiu hắt
Ru tâm hồn tẻ ngắt buồn tanh
Sông dài lặng lẽ dòng xanh
Dòng xanh lặng lẽ thuyền tình du dương

Thuyền lênh đênh theo đường chèo lái
Nhịp dịu dàng êm ái trạo ông
Nỗi niềm rầu rĩ bên lòng
Tâm hồn tê tái trên dòng trần duyên

Tâm hồn lướt lướt lên êm ái
Sóng lòng dung tê tái đòi phen
Con thuyền theo sóng bon chen
Trạo ông chèo lái nhường quen xuôi dòng

Mà chị nguyệt nỗi lòng sao đó
Cõi âm u lấp ló não nùng
Gieo buồn trong cảnh mịt mùng
Gieo buồn cả tới cõi lòng ta đây

Tâm hồn đã bấy chầy rầu rãi
Vết đau thương tê tái du dương
Thuyền lan sóng bạc dặm trường
Não nùng du mộng hồn càng sầu thương

Ty Khôi Tiên Tử