7 tháng 9, 2012

Bắc hành tạp lục - Chu phát


132. Chu phát 

Khứ biến đông nam lộ
Thông thông tuế dục chu
Sử tòng Giang Hán khẩu
Lai phiếm Động Đình chu
Nhân bỉ lai thì sấu
Giang đồng khứ nhật thu
Hạc lâu thành vịnh xứ
Bạch vân không du du

舟發
去遍東南路
匆匆歲欲週
使從江漢口
來泛洞庭舟
人比來時瘦
江同去日秋
鶴樓成詠處
白雲空悠悠

Dịch nghĩa
Thuyền ra đi
Đi khắp đường đông nam
Thấm thoát năm gần hết
Thuận theo cửa sông Giang Hán
Dong thuyền qua hồ Động Đình
Người gầy hơn so với lần đến
Sông vẫn là thu ngày trước
Ở chỗ vịnh thơ lầu thơ hạc cũ
Mây trắng cứ lững lờ trôi

Đông nam đi khắp xứ tầu
Mới đây thấm thoát đã hầu một năm
Cửa sông Giang Hán xuôi dòng
Động Đình hồ đẹp thuyền rồng rong chơi
Trở về gầy rạc tả tơi
Gió thu năm ngoái vẫn chơi trên dòng
Lầu thơ Hoàng Hạc bên sông
Trên trời mây trắng mênh mông hững hờ

Đi khắp đường đông nam
Thấm thoát gần hết năm
Tiện suôi sông Giang Hán
Rong ruổi Động Đình êm
Người ốm hơn năm ngoái
Cảnh thu đồng nước yên
Chỗ làm thơ vịnh hạc
Mây trắng trôi êm đềm 

Bắc hành tạp lục - Hoàng Mai đạo trung


131. Hoàng Mai đạo trung 

Ngô sơn hành dĩ biến
Sở sơn lai cánh đa
Đáo đắc thanh sơn tận
Kì như bạch phát hà
Hành Nhạc tuyết sơ tễ
Động Đình xuân thủy ba
Kế trình tại tam nguyệt 
Do cập tường vi hoa

黃梅道中
吳山行已遍
楚山來更多
到得青山盡
其如白髮何
衡岳雪初霽
洞庭春水波
計程在三月
猶及薔薇花

Dịch nghĩa
Trên đường Hoàng Mai
Núi nước Ngô đã đi khắp
Đến nước Sở, núi càng nhiều
Đến được chỗ tận cùng núi xanh
Đầu bạc biết sao bây giờ
Đến Hành Dương, Nhạc Dương, tuyết vừa tạnh
Hồ Động Đình, nước xuân sóng sánh
Tính đường đi, tháng ba về tới
Còn kịp thấy hoa tường vi

Núi Ngô ta đã đi cùng
Núi non nước Sở ngàn trùng cũng qua
Tận cùng xanh thẳm sơn hà
Bơ phờ đầu bạc biết là làm sao
Tuyết ngừng Hành Nhạc núi cao
Động Đình sóng gợn biết bao xuân mà
Tính đường về đến tháng ba
Tường vi còn kịp thấy hoa khoe màu

Núi Ngô đã đi khắp
Núi non Sở xiết bao
Đến được núi xanh tận
Bạc đầu biết nói sao
Hành, Nhạc tuyết vừa tạnh
Động Đình xuân lại qua
Tính đường tháng ba tới
Kịp thấy tường vi hoa 

Bắc hành tạp lục - Hoàng Mai sơn thượng thôn


130. Hoàng Mai sơn thượng thôn 

Sơn hạ hữu trường tùng
Sơn thượng hữu diêu thôn
Sơn hạ trường tùng sao
Chính đương sơn thượng môn
Môn nội sở cư nhân
Cùng niên hà sở vi
Nữ sự duy tích ma
Kì nam nghiệp vân tỉ 
Vân tỉ cẩu đắc nhàn
Há sơn phạt tùng chi
Liêu dĩ túc quan thuế
Bất sự thư dữ thi
Thôi tô nhất bất đáo
Kê khuyển giai hi hi
Mật thạch ngại xa mã
Tạp hoa đương tuế thì
Sơn ngoại hưng dữ phế
Sơn trung giai bất tri
Toán lai nhất niên trung
Sở ưu vô nhất thì
Sở dĩ sơn trung nhân
Nhân nhân giai kỳ di 
Tùng hoa bách tử khẳng hứa thực
Bạch đầu khứ thử tương an quy

黃梅山上村
山下有長松
山上有遙村
山下長松梢
正當山上門
門內所居人
窮年何所為
女事惟績麻
其男業耘耔
耘耔苟得閒
下山伐松枝
聊以足官稅
不事書與詩
催租一不到
雞犬皆熙熙
密石礙車馬
雜花當歲時
山外興與廢
山中皆不知
算來一年中
所憂無一時
所以山中人
人人皆其頤
松花柏子肯許食
白頭去此將安歸

Dịch nghĩa
Xóm núi Hoàng Mai
Dưới chân núi có tùng cao
Trên núi có xóm xa
Ngọn tùng cao dưới núi
Cao ngang cổng trên núi
Người ở trong cổng ấy
Quanh năm làm gì?
Việc đàn bà chỉ là xe sợi gai
Việc đàn ông là cầy cấy
Cầy cấy, lúc nhàn rỗi
Xuống núi chặt cành tùng
Lo đủ thuế nộp cho quan
Không bận sách cùng thơ
Quan đòi thuế mà không đến
Gà chó vui phởn phơ
Đá kín dầy cản xe ngựa
Các loại hoa cho biết mùa trong năm
Sự hưng phế bên ngoài núi
Người ở trong núi đều không biết
Tính lại suốt năm
Chẳng bao giờ lo âu
Cho nên người trong núi
Người người sống lâu trăm tuổi
Hoa tùng quả bách mà ăn được
Khi bạc đầu, không về đây còn đi đâu nữa

Tùng cao vời vợi núi cao
Một làng nho nhỏ đường vào núi non
Cây tùng chân núi ví von
Vươn cao lên đến cổng con trước làng
Trong làng thử hỏi người dân
Làm sao sinh sống quanh năm bốn mùa
Gái thời xe sợi thêu thùa
Trai thời cầy cấy đúng mùa doanh thu
Rỗi cầy nhàn hạ lắm ru
Chặt tùng dưới núi gom thu về nhà
Thuế vua vừa đủ gọi là
Văn chương thi phú có mà biết đâu
Nếu mà thuế vụ chẳng vào
Con gà con chó con nào cũng vui
Cản xe có đá đen thui
Đưa tin mùa tới đã thời có hoa
Bên ngoài hưng thịnh can qua
Ở trong làng núi có mà biết đâu
Sống đời chẳng chút lo âu
Xuôi dòng nhân thế chảy hoài quanh năm
Trong làng tất cả người dân
Sống lâu mạnh khoẻ an nhàn thảnh thơi
Hoa tùng quả bách trên đời
Nếu mà ăn được đây thời cõi tiên

Bắc hành tạp lục - Sở kiến hành


129. Sở kiến hành 

Hữu phụ huề tam nhi
Tương tương tọa đạo bàng
Tiểu giả tại hoài trung
Ðại giả trì trúc khuông
Khuông trung hà sở thịnh
Lê hoắc tạp tì khang
Nhật án bất đắc thực
Y quần hà khuông nhương
Kiến nhân bất ngưỡng thị
Lệ lưu khâm lang lang
Quần nhi thả hỉ tiếu
Bất tri mẫu tâm thương
Mẫu tâm thương như hà
Tuế cơ lưu dị hương
Dị hương sảo phong thục
Mễ giá bất thậm ngang
Bất tích khí hương thổ
Cẩu đồ cứu sinh phương
Nhất nhân kiệt dung lực
Bất sung tứ khẩu lương
Duyên nhai nhật khất thực
Thử kế an khả trường
Nhãn hạ ủy câu hác
Huyết nhục tự sài lang
Mẫu tử bất túc tuất
Phủ nhi tăng đoạn trường
Kỳ thống tại tâm đầu
Thiên nhật giai vị hoàng
Âm phong phiêu nhiên chí
Hành nhân diệc thê hoàng
Tạc tiêu Tây Hà  dịch
Cung cụ hà trương hoàng
Lộc cân tạp ngư xí
Mãn trác trần trư dương
Trưởng quan bất hạ trợ
Tiểu môn chỉ lược thường
Bát khí vô cố tích
Lân cẩu yếm cao lương
Bất tri quan đạo thượng
Hữu thử cùng nhi nương
Thùy nhân tả thử đồ
Trì dĩ phụng quân vương

所見行
有婦攜三兒
相將坐道旁
小者在懷中
大者持竹筐
筐中何所盛
藜藿雜枇糠
日晏不得食
衣裙何框禳
見人不仰視
淚流襟浪浪
群兒且喜笑
不知母心傷
母心傷如何
歲饑流異鄉
鄉稍豐熟
米價不甚昂
不惜棄
鄉土
苟圖救生方
一人竭傭力
不充四口糧
沿街日乞食
此計安可長
眼下委溝壑
血肉飼豺狼
母死不足恤
撫兒增斷腸
奇痛在心頭
天日皆為黃
陰風飄然至
行人亦悽惶
昨宵西河驛
供具何張黃
鹿筋雜魚翅
滿棹陳豬羊
長官不下箸
小們只略嘗
撥棄無顧惜
鄰狗厭膏粱
不知官道上
有此窮兒娘
誰人寫此圖
持以奉君王

Dịch nghĩa
Những điều trông thấy
Có người đàn bà dắt ba đứa con
Cùng nhau ngồi bên đường
Ðứa nhỏ trong bụng mẹ
Ðứa lớn cầm giỏ tre
Trong giỏ đựng gì lắm thế?
Rau lê, hoắc lẫn cám
Qua trưa rồi chưa được ăn
Áo quần sao mà rách rưới quá
Thấy người không ngẩng nhìn
Nước mắt chảy ròng ròng trên áo
Lũ con vẫn vui cười
Không biết lòng mẹ đau
Lòng mẹ đau ra sao?
Năm đói lưu lạc đến làng khác
Làng khác mùa màng tốt hơn
Giá gạo không cao quá
Không hối tiếc đã bỏ làng đi
Miễn sao tìm được phương tiện sống
Một người làm hết sức
Không đủ nuôi bốn miệng ăn
Dọc đường mỗi ngày đi ăn mày
Cách ấy làm sao kéo dài mãi được
Thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên ngòi rãnh
Máu thịt nuôi lang sói
Mẹ chết không thương tiếc
Vỗ về con càng thêm đứt ruột
Trong lòng đau xót lạ thường
Mặt trời vì thế phải vàng uá
Gió lạnh bỗng ào tới
Người đi đường cũng đau đớn làm sao
Ðêm qua ở trạm Tây Hà
Tiệc tùng cung phụng khoa trương quá mức
Gân hươu cùng vây cá
Ðầy bàn thịt heo, thịt dê
Quan lớn không thèm đụng đũa
Ðám theo hầu chỉ nếm qua
Vứt bỏ không luyến tiếc
Chó hàng xóm cũng ngán món ăn ngon
Không biết trên đường cái
Có mẹ con đói khổ nhà này
Ai người vẽ bức tranh đó
Ðem dâng lên nhà vua


Một tay mẹ dắt ba con
Cùng nhau ngồi cạnh bên đường cái quan
Nhỏ thời trong bụng mẹ nằm
Rổ tre em lớn tay cầm tay mang
Bên trong lắm thứ lăng nhăng
Rau lê rau hoắc chộn chung cám vàng
Trưa rồi bụng chẳng hột cơm
Áo quần tơi tả thảm thương rụng rời
Mặt đâu dám ngẩng nhìn đời
Âu sầu vạt áo lệ rơi đôi dòng
Các con cười nói ung dung
Thấy đâu lòng mẹ đau thương não nề
Lòng rầu sầu héo trăm bề
Tha phương cầu thực bỏ quê bỏ nhà
Nơi đâu thu hoạch đậm đà
Để cho giá gạo không là quá cao
Chỉ mong đủ sống xít sao
Cho dù bỏ xứ có nào dám than
Một tay kiệt sức tảo tần
Cũng không nuôi đủ bốn phần miệng ăn
Thôi đành khất thực xin cơm
Cách này tuy dở nhưng còn hơn không
Một mai bỏ xác bên sông
Thịt thì cọp đớp máu hồng sói xơi
Thân già mẹ chết thì thôi
Ôm con đứt ruột trời ơi là trời
Lòng đau gan rối bụng rời
Bầu trời ủ rũ nắng rơi héo vàng
Gió đâu hơi lạnh thổi tràn
Khách qua đường cũng nát tan cõi lòng
Trạm Tây Hạ mở liên hoan
Cực kỳ xa xỉ mâm bàn cỗ cao
Vây cá cùng với hươu sao
Đầy bàn dê lợn và gà mái tơ
Quan to ngài chăng thèm rờ
Quân hầu bên cạnh giả vờ nếm qua
Tiện tay quẳng thật rõ xa
Bỏ không luyến tiếc thịt thà chó chê
Nào hay trên bước đường quê
Mẹ con cùng quẩn tái tê dường này
Tranh này ai vẽ cho hay
Dâng lên thánh thượng cho ngài được xem

Bắc hành tạp lục - Tây Hà dịch


128. Tây Hà dịch 

Thanh thạch kiều tây ngạn
Y nhiên tiểu lí lư
Đạo bàng nhân ngữ tạp
Ốc hậu trúc âm sơ
Hòa bản cung thần thiếu
Xuân liên đãi tuế trừ
Tương phùng vô biệt thoại
Nhất tiếu ý hà như

西河驛
青石橋西岸
依然小里閭
道傍人語雜
屋後竹陰疏
禾本供晨燒
春聯待
歲除
相逢無別話
一笑意何如

Dịch nghĩa
Trạm Tây Hà
Bên bờ phía tây cầu đá xanh
Xóm nhỏ vẫn như cũ
Bên đường tiếng người tạp nhạp
Sau nhà bóng trúc thưa
Gốc rạ dành để đốt lửa sớm
Câu đối xuân chờ hết năm cũ
Gặp nhau không nói năng gì
Chỉ cười, ý ra sao

Bến tây cầu đá xanh lơ
Còn y xóm nhỏ đứng trơ giữa trời
Bên đường tiếng gọi bời bời
Sau nhà giậu trúc lưa thưa vài hàng
Đốt lò gốc rạ làm than
Giao thừa câu đối đón xuân trở về
Gặp nhau chẳng nói giả từ
Chỉ hơi nhoẻn miệng cười trừ mà thôi

Cầu đá xanh bờ tây
Y nguyên con xóm nhỏ
Bên đường người lải nhải
Sau giậu trúc lơ thơ
Gốc rạ bếp ban mai
Đối xuân đợi tết về
Gặp nhau không muốn nói
Nhoẻn miệng cười vu vơ

Bắc hành tạp lục - Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài

127. Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài 

Lương triều Chiêu Minh thái tử phân kinh xứ
Thạch đài do kí "Phân kinh" tự
Đài cơ vu một vũ hoa trung
Bách thảo kinh hàn tận khô tử
Bất kiến di kinh tại hà sở
Vãng sự không truyền Lương thái tử
Thái tử niên thiếu nịch ư văn
Cưỡng tác giải sự đồ phân phân
Phật bản thị không, bất trước vật
Hà hữu hồ kinh an dụng phân
Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa
Thục vi Kim Cương, vi Pháp Hoa 
Sắc không cảnh giới mang bất ngộ
Si tâm quy Phật, Phật sinh ma
Nhất môn phụ tử đa giao tế
Nhất niệm chi trung ma tự chí
Sơn lăng bất dũng liên hoa đài
Bạch mã triêu độ Trường Giang thủy
Sở lâm họa mộc trì ương ngư 
Kinh quyển thiêu hôi đài diệc dĩ
Không lưu vô ích vạn thiên ngôn
Hậu thế ngu tăng đồ quát nhĩ
Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn
Thuyết pháp độ nhân như Hằng Hà sa số 
Nhân liễu thử tâm nhân tự độ
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
Minh kính diệc phi đài 
Bồ Đề bản vô thụ 
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kì trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo Phân kinh thạch đài hạ
Chung tri vô tự thị chân kinh 

梁昭明太子分經石臺
梁朝昭明太子分經處
石臺猶記分經字
臺基蕪沒雨花中
百草驚寒盡枯死
不見遺經在何所
往事空傳梁太子
太子年少溺菸文
強作解事徒紛紛
佛本是空不著物
何有乎經安用分
靈文不在言語科
孰為金剛為法華
色空境界茫不悟
癡心歸佛佛生魔
一門父子多膠蔽
一念之中魔自至
山陵不涌蓮花臺
白馬朝渡長江水
楚林禍木池殃魚
經卷燒灰臺亦圯
空留無益萬千言
後世愚僧徒聒耳
吾聞世尊在靈山
說法渡人如恆河沙數
人了此心人自渡
靈山只在汝心頭
明鏡亦臺
菩提本無樹
我讀金剛千遍零
其中奧旨多不明
及到分經石臺下
終知無字是眞經


Dịch nghĩa
Đài đá Chia kinh của thái tử Chiêu Minh nhà Lương
Nơi Chiêu Minh thái tử triều Lương chia kinh
Đài đá còn ghi chữ "Chia kinh"
Nền đài gai góc lấp trong mưa bụi
Trăm loài cỏ sợ lạnh đều chết khô hết
Không thấy kinh còn lại nơi đâu
Chỉ nghe kể chuyện thời xưa
Lương thái tử thời niên thiếu say mê văn chương
Gượng bày đặt phân tách chi ly rắc rối
Phật vốn là không, chẳng vướng vào vật
Có gì tùy thuộc vào kinh mà chia với phân?
Văn thiêng không phải nhờ khoa ngôn ngữ
Cái gì là kinh Kim Cương, cái chi là kinh Pháp Hoa?
Cảnh giới Sắc Không mờ mịt không hiểu
U mê mà theo Phật thì Phật sinh ra ma
Cha con một nhà cùng mù quáng hết
Chỉ trong một niệm, ma tự đến
Ở nơi lăng núi không có đài sen nổi lên
Một sớm ngựa trắng vượt sông Trường Giang
Rừng nước Sở cháy, cây gặp tai họa, cá trong ao bị vạ
Kinh cháy ra tro, đài cũng đổ
Muôn nghìn lời để lại đều vô ích
Chỉ để cho đám sư ngu dốt đời sau tụng đọc điếc tai
Ta nghe nói đức Thế Tôn tại Linh Sơn
Thuyết Pháp cứu người nhiều như cát sông Hằng
Người hiểu tâm này, người tự độ
Linh Sơn chính ở tại lòng ta
Gương sáng không có đài
Bồ đề vốn không cây
Ta đọc Kinh Kim cương hơn nghìn lần
Nhiều yếu chỉ sâu sắc trong đó ta không rõ
Đến nay, dưới đài đá "Chia kinh"
Mới hiểu kinh "không chữ" mới thật là chân kinh

Triều Lương thái tử Chiêu Minh
Tại nơi đài đá chia kinh phổ truyền
“Chia kinh” đá khắc rõ ràng
Nền đài gai mọc bập bùng gió mưa
Cỏ dầy sợ lạnh chết khô
Kinh xưa truyền lại biết đâu nơi nào
Chỉ nghe kể chuyện đã lâu
Thiếu thời thái tử đạo mầu say mê
Lạm bàn chú thích lê thê
Phật ngài vốn chẳng chấp nê chuyện đời
Tại sao chia cắt rối bời
Kinh văn nào phải ở lời khoa trương
Pháp Hoa cùng với Kim Cương
Sắc Không cảnh giới mênh mông mịt mù
Tâm mê đọc phật ra ma
Cha con một duộc đúng là bị đui
Niệm sinh tính phật chôn vùi
Đắm chìm đồi núi ngậm ngùi đài sen
Một hôm ngựa vượt Trường Giang
Cây rừng nước Sở bừng bừng cháy tan
Kinh tiêu đài cũng lụi tàn
Muôn ngàn chữ nhảm chỉ toàn điếc tai
Sư ngu đọc tụng đêm ngày
Linh Sơn phật tổ giải bày nghĩa kinh
Độ Hằng sa số thiện nhân
Đạo mầu cốt ở chữ tâm trong lòng
Lòng mình chính thật Linh Sơn
Nào đâu gương sáng đài son gác vàng
Bồ đề cây đó vốn không
Kim cương đọc tụng có hơn ngàn lần
Nghĩa kinh mờ mịt mơ màng
Dưới nền đài cũ bỗng bừng tỉnh ra
Chân kinh thực sự đó mà
Không hề có chữ chính là lòng ta

Bắc hành tạp lục - Đào Hoa dịch đạo trung


125. Đào Hoa dịch đạo trung kỳ 1 

Tiềm Sơn bát bách lý,
Tây tiếp Sở sơn vân.
Cổ thạch sấu như quỷ,
Tân tùng trường tỷ nhân
Vạn huề nghi thục mạch,
Thập nhật cách phong trần.
Bạch Liên Hà Bắc sơn,
Sơn trung như bất văn.

桃花驛道中其一
潛山入百里
西接楚山雲
古石瘦如鬼
新松長比人
萬畦宜菽麥
十日隔風塵
白連河北山
山中如不聞

Dịch nghĩa
Trên đường đến trạm Đào Hoa bài 1
Trạm Đào Hoa cách Tiềm Sơn tám trăm dặm,
Phía tây tiếp liền mây núi Sở.
Đá cổ gầy như quỉ,
Thông non cao bằng người.
Vạn khoảng ruộng, dâu lúa đều tốt.
Đã mười ngày xa gió bụi,
Qua dãy Bạch Liên ở Hà Bắc,
Trong núi vắng lặng như không nghe thấy gì.

Tiềm Sơn tám trăm dặm dài
Phía tây nước Sở núi mây sửng sờ
Đá gầy như quỷ vật vờ
Thông cao tầm thước mịt mờ khói sương
Lúa đầy thẳng tắp cánh đồng
Mười ngày cách biệt bụi hồng đường khuya
Bạch Liên Hà Bắc trông kìa
Núi sâu thăm thẳm còn chưa nghe gì

Tiềm Sơn tám trăm dặm
Tây nối Sở non mây
Đá cổ gầy như quỷ
Tùng cao vừa khổ người
Ruộng đầy dâu lúa tốt
Mười bữa khỏi bụi vây
Núi Bạch Liên Hà Bắc
Non sâu chẳng nghe tày

126. Đào Hoa dịch đạo trung kỳ 2 

Kê khuyển xuất tang ma,
Duyên khê tiểu kính tà.
Sơn điền thường tích thuỷ,
Dã phạn bán hàm sa
Thạch ẩn cao nhân ốc,
Trần tuỳ quí giả xa
Cô yên tại thiên mạt,
Kim dạ túc thùy gia?

桃花驛道中其二
雞犬出桑麻
沿溪小逕斜
山田常積水
野飯半含沙
石隱高人屋
塵隨貴者車
孤煙在天末
今夜宿誰家

Dịch nghĩa
Trên đường đến trạm Đào Hoa bài 2
Gà chó từ đám dâu chạy ra.
Một lối nhỏ chênh chếch men theo khe.
Ruộng núi thường chứa nước.
Bữa cơm ngoài đồng lẫn cát sạn.
Đá che lấp nhà người cao sĩ,
Bụi bám theo xe người sang trọng.
Ngọn khói lẻ loi tận chân trời,
Đêm nay biết nghỉ nhà ai ?

Bụi gai chó chạy gà bay
Bên khe lối nhỏ dốc ngay gần nhà
Nước đầy ruộng ũng rồi mà
Cơm đồng lắm sạn thật là khó ăn
Núi sâu ẩn bậc cao nhân
Dập dình ngựa chạy bụi vàng dấu xe
Chân trời khói lẻ lê thê
Đêm khuya thanh vắng biết về nhà ai

Gà chó bụi dâu ra
Bên khe lối nhỏ tà
Nương cao thường ũng nước
Cơm ruộng sạn nhiều mà
Núi rộng cao nhân ẩn
Xe sang kéo bụi mờ
Khói bay tận chân trời
Đêm vắng về đâu ở

Bắc hành tạp lục - Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích


124. Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích 

Đào Hoa đàm  thuỷ thiên xích thanh
Đàm thượng tùng bách đông do thanh
Đạo thị Đường triều Lý cung phụng 
Tùng ẩm thử đảm nhân đắc danh
Thập niên tửu tứ nhân gian thế 
Thiên tử hô lai do lạn tuý
"Tự ngôn thần thị tửu trung tiên"
Bạc thị vinh danh đồng tệ lý
Thiên niên thắng tích dĩ nhân truyền
Bất tại du du nhất đàm thuỷ
Đàm thuỷ chí kim thanh thả liên
Nhất ngư nhất điểu giai thành tiên
Trù trướng tư nhân bất phục kiến
Viễn lai sử ngã tâm mang nhiên
Thế lộ trần ai tín hỗn trọc
Bất như chung nhật thống ẩm toàn ngô thiên.

桃花潭李青蓮舊跡
桃花潭水千尺清,
潭上松柏冬猶青。
道是唐朝李供奉,
縱飲此潭因得名。
十年酒肆人間世,
天子呼來猶爛醉。
自言臣是酒中仙,
薄視榮名同敝履。
千年勝跡以人傳,
不在悠悠一潭水。
潭水至今清且漣,
一魚一鳥皆成仙。
惆悵斯人不復見,
遠來使我心茫然。
世路塵埃信溷濁,
不如終日痛飲全吾天。

Dịch nghĩa
Dấu tích cũ của Lý Thanh Liên ở đầm Đào Hoa
Đầm Đào Hoa nghìn thước nước trong
Bên bờ tùng bách thắm tươi xanh
Rằng xưa một Lý Cung thời Đường
Say mèm nơi đó nên thành danh
Mười năm lăn lóc rượu một quán
Vua gọi vào cung vẫn khướt say
Danh xưng: "tiên rượu chính là ta"
Danh vọng coi thường như giẻ rách
Bởi người cảnh nghìn năm nổi tiếng
Đâu phải do đầm nước mênh mông
Nước đầm vẫn trong vẫn gợn sóng
Một cá một chim cũng thành tiên
Buồn vì người xưa chẳng được gặp
Lòng người xa xứ luống bùi ngùi
Đường trần ô trọc đầy gió bụi
Chi bằng ngày tháng giữ cốt thiên cứ uống tràn.

Đào Hoa ngàn thước nước trong
Bên đầm tùng bách mùa đông xanh màu
Thời Đường họ Lý còn đâu
Làm quan Cung Phụng rũ say nơi này
Mười năm quán rượu khướt say
Nhà vua cho gọi gặp ngay hũ chìm
Tự xưng tiên rượu là mình
Coi thường danh vọng giày cùn rong chơi
Nhờ người đầm nổi muôn đời
Phải đâu vì nước ngất trời mênh mông
Đầm trong nước gợn trên dòng
Con chim con cá cũng đồng thành tiên
Tiếc thay chưa gặp bậc hiền
Xa nhà ta lại triền miên bồi hồi
Bụi đường dơ bẩn rối bời
Chỉ còn chén rượu say đời uống khan

Bắc hành tạp lục - Tiềm Sơn đạo trung


123. Tiềm Sơn đạo trung 

Túc hữu ái sơn tích
Biệt hậu tư hà như
Lai đáo Tiềm Sơn lộ
Uyển như Hồng Lĩnh cư
Vân hà viên khiếu ngoại
Tùng bách hạc sào dư
Định hữu sơn trung khách
Bình sinh bất thức dư

潛山道中
夙有愛山癖
別後思何如
來到潛山路
宛如鴻嶺居
雲霞猿嘯外
松柏鶴巢餘
定有山中客
平生不識余

Dịch nghĩa
Trên đường qua Tiềm Sơn
Ta vốn có tính yêu núi
Xa rồi nhớ bao nhiêu
Nay trên đường đi Tiềm Sơn
Tưởng như ở trong dãy Hồng Lĩnh
Mây ráng bên ngoài nơi vượn hú
Cây tùng cây bách có thừa chỗ cho hạc làm tổ
Hẳn có người trong núi
Suốt đời không quen biết ta

Ta yêu đồi núi vô vàn
Xa rồi lại nhớ muôn ngàn xiết bao
Tiềm Sơn thẳng bước đường vào
Thoáng trông Hồng Lĩnh giống sao một màu
Chim kêu vượn hú mây cao
Cây tùng ổ hạc chao đao trên cành
Núi sâu chắc có cao nhân
Sống đời ẩn đật biết mình là ai

Ta vốn tính yêu núi
Xa vắng nhớ làm sao
Đến viếng Tiềm Sơn đó
Tưởng như Hồng Lĩnh nào
Vượn kêu ngoài ráng khói
Ổ hạc ngọn tùng cao
Hẵn có người trong núi
Cả đời chẳng biết nhau

Bắc hành tạp lục - Từ Châu dạ


122. Từ Châu dạ 

Hành lộ tị can qua
Nghiêm hàn độ dạ hà
Nguyệt lai nam quốc đại
Sơn nhập bắc Từ đa
Thành ngoại liệt binh giáp
Thành trung văn huyền ca
Khô dương tam bách thụ
Thụ thụ hữu đề nha

徐州夜
行路避干戈
嚴寒渡夜河
月來南國大
山入北徐多
城外列兵甲
城中聞絃歌
枯楊三百樹
樹樹有啼鴉

Dịch nghĩa
Đêm ở Từ Châu
Đi đường phải tránh vùng giặc giã
Giữa đêm đông giá lạnh, qua sông
Phía nước Nam, trăng lớn
Bắc Từ Châu, núi nhiều
Ngoài thành đầy binh giáp
Trong thành nghe đàn ca
Ba trăm cây dương khô héo
Trên các cây, tiếng quạ kêu

Đi vòng để tránh can qua
Đêm đông lạnh lẽo thuyền đà vượt sông
Phương nam trăng lớn theo dòng
Từ châu cửa bắc núi non ngàn trùng
Ngoài thành binh lính bít bùng
Trong thành đàn réo đùng đùng trống vang
Ba trăm cây liễu héo vàng
Chim kêu quạ hú trên cành cây cao

Đi tránh đường vùng giặc
Đêm đông lạnh lái đò
Trăng phương nam rất lớn
Núi bắc Từ Châu già
Ngoài tỉnh lắm binh lính
Trong thành nghe đờn ca
Ba trăm cây dương héo
Đều có tiếng quạ kêu

Bắc hành tạp lục - Mạnh Tử từ cổ liễu


121. Mạnh Tử từ cổ liễu 

Ngô văn thiên trì chi phần hữu long yêu kiểu
Kim chi hoạ đồ vô lược tiếu
Phong vũ nhất dạ phi hạ lai
Háo vi á thánh cung môn liễu
Thử liễu hồn toàn bách thập vi
Dưỡng thành đại vật phi nhất thì
Vũ lộ thiên ý độc tư nhuận
Quỉ thần ám trung tương phù trì
Chi kha lạc lạc lão ích tráng
Tuế nguyệt du du thâm bất tri
Tả bàn hữu chuyển đương đại đạo
Quá khách bất cảm phàn kỳ chi
Thông thông uất uất bão nguyên khí
Thiên hạ tư văn kỳ tại ti (tư)
Hương nhân chi dĩ nhị thạch trụ
Thạch trụ ký thâm căn dũ cố
Bất đồng phàm hủy tiểu xuân thu
Bán mẫu phong yên tự kim cổ
Hạo nhiên chi khí phi tầm thường
Đại tài ưng dữ thiên tề thọ.

孟子祠古柳
吾聞天池之濆有龍夭矯,
今之畫圖無略肖。
風雨一夜飛下來,
化為亞聖官門柳。
此柳渾全百十圍,
養成大物非一時。
雨露天意獨滋潤,
鬼神暗中相扶持。
枝柯落落老益壯,
歲月悠悠深不知。
左蟠右轉當大道,
過客不敢攀其枝。
蔥蔥鬱鬱抱元氣,
天下斯文其在斯。
鄉人支以二石柱,
石柱既深根愈固。
不同凡卉小春秋,
半畝風煙自今古。
灝然之氣非尋常,
大樹應與天齊壽。

Dịch nghĩa
Cây liễu cổ trước đền Mạnh Tử
Ta nghe trên ao trời có con rồng uốn khúc
Những bức vẽ ngày nay trông không giống
Một đêm mưa gió rồng bay xuống đây
Hóa làm cây liễu trước đền Á Thánh
Cây liễu này toàn vẹn to trăm người ôm
Được nuôi to cao như thế không phải một lúc
Trời biệt đãi đem mưa nhuần tưới
Quỷ thần ngầm giúp đỡ
Cành sum suê càng già càng khỏe
Ngày tháng dằng dặc chẳng biết bao nhiêu
Trái cuốn phải cong ngay trên đường cái
Khách qua lại không dám vén cành
Rậm rạp um tùm chứa nguyên khí
Nên văn minh thiên hạ ở đây mà ra
Người làn xây hai trụ đá để chống đỡ
Trụ đá càng sâu càng bền
Không như cây cỏ tầm thường nhỏ tuổi
Cây chiếm nửa mẫu trong mây gió từ xưa tới nay
Cái khí mênh mông không tầm thường
Cây lớn ngang tuổi thọ với trời

Rồng thiêng vờn sóng ao trời
Nhưng sao bức hoạ nay thời khác xa
Một đêm mưa đổ gió sa
Rồng thành cây liễu trước nhà thánh nhân
Thân to lớn rộng trăm ôm
Cây nuôi bây lớn phải trong một ngày
Gió hoà mưa thuận ý trời
Quỷ thần phù hộ suốt đời bình an
Sum suê cành lá chắc thân
Bao năm nào biết vẫn thuần màu xanh
Ngay kề đường cái uốn quanh
Kẻ qua người lại vịn cành dám đâu
Khí thiêng ấp ủ nhiệm mầu
Văn chương chữ nghĩa lõi sâu cội nguồn
Hai trụ làng dựng bên đường
Chôn càng sâu gốc trụ càng bền gan
Cây này chẳng giống cây phàm
Gió sương nửa mẫu rộng tàn mênh mang
Khí thiêng cao ngất phi thường
Cây to sống mãi ngang bằng trời xanh

Bắc hành tạp lục - Vinh Khải Kỳ thập tuệ xứ


120. Vinh Khải Kỳ thập tuệ xứ 

Tam lạc nhân giai hữu
Như hà tử độc tri
Sinh bần do bất tuất
Lão tử phục hà bi
Khoáng dã Đông Sơn hạ
Hành ca thập tuệ thì
Hiền danh lưu thử địa
Thiên cổ khởi nhân ti

榮棨期拾穗處
三樂人皆有
如何子獨知
生貧猶不恤
老死復何悲
曠野東山下
行歌拾穗時
賢名留此地
天古起人思

Dịch nghĩa
Nơi Vinh Khải Kỳ mót lúa
Ba niềm vui của ông, mọi người đều có
Sao chỉ mình ông biết?
Sống nghèo còn chẳng đoái nghĩ
Già chết lại buồn chi ?
Cánh đồng bát ngát bên núi Đông Sơn
Vừa ca vừa mót lúa
Tiếng người hiền lưu lại đất này
Xưa nay người ta nhớ

Ba vui ai cũng có rồi
Trên đời hiểu được ông thôi một mình
Sống nghèo đừng quá bận tâm
Chết đi cát bụi ôm lòng hận ai
Đông Sơn đồng ruộng chân mây
Đồng ca mót lúa vui vầy với nhau
Bậc hiền để tiếng nơi đây
Ngàn năm dưới thế chốn này nổi danh

Ai cũng có ba vui
Chỉ mình ông hiểu rõ?
Sống nghèo không thấy sợ
Già chết lại buồn lo?
Bát ngát Đông Sơn cỏ
Hát ca mót lúa dư
Bậc hiền tiếng để rõ
Ngàn thủa chẳng phai mờ

Bắc hành tạp lục - Hoàng Châu trúc lâu


119. Hoàng Châu trúc lâu                               

Hợp vi cự trúc biến giao cù
Tằng hữu tiền nhân kiến thử lâu
Cựu chỉ hà thời thành bạch địa
Di văn tòng cổ ký Hoàng Châu
Hậu nhân đồ hữu thiên niên cảm
Đương nhật tằng vô cách tuế mưu
Duy hữu Trường giang xảo thu thập
Nhất thành nhất húy tẫn đông lưu.

黃州竹樓
合圍巨竹遍郊衢,
曾有前人建此樓。
舊址何時成白地,
遺文從古記黃州。
後人徒有千年感,
當日曾無隔
歲謀。
惟有長江巧收拾,
一成一毀盡東流。

Dịch nghĩa
Lầu trúc ở Hoàng Châu
Bụi trúc lớn một ôm mọc khắp các nơi
Người xưa dựng lên lầu này
Nền cũ thành đất hoang khi nào
Chỉ còn bài viết về lầu Hoàng Châu
Người sau xúc cảm về việc ngàn năm trước
Lúc đó đâu tính đến việc sau
Chỉ có Trường Giang là khéo thu xếp
Bên bồi bên lỡ chảy hết ra sông

Chung quanh trúc lớn mọc đầy
Người xưa dựng một lầu cây nơi này
Nền xưa nay đã tàn phai
Hoàng Châu bài viết ngày nay vẫn còn
Chuyện xưa nghĩ lại thoáng buồn
Việc sau đời trước khó lòng lo toan
Hay thay ngọn sóng Trường Giang
Bên bồi bên lở xuôi dòng biển đông

Chung quanh trúc lớn mọc cao đầy
Ngày trước dựng lầu cũng tại đây
Nền cũ khi nào thành đất trống
Hoàng Châu vẫn chép việc xây này
Người sau cảm xúc công trình cũ
Khi đó tính đâu chuyện hỏng nay
Chỉ có Trường Giang thu xếp khéo
Bên bồi bên lở chảy đêm ngày

Bắc hành tạp lục - Đồ trung ngẫu hứng


118. Đồ trung ngẫu hứng 

Sơn hạ kiều tùng, tùng hạ phần
Luy luy đô thị cổ thời nhân
Tự do tự tại bất tri tử
Hoa lạc hoa khai vô hạn xuân
Phục lạp tử tôn không lỗi tửu
Thế gian phú quí đẳng phù vân
Bách niên đáo để giai như thị
Hồ thủ mang mang nhất phiến trần.

途中偶興
山下喬松松下墳
纍纍都是古時人
自由自在不知死
花落花開無限春
伏臘子孫空酹酒
世間富貴等浮雲
百年到底皆如是
回首芒芒一片塵

Dịch nghĩa
Ngẫu hứng giữa đường
Dưới chân núi là thông cao, dưới tàn thông là mồ mả
Ngổn ngang gò đống, đều là người xưa cả
Tự do tự tại không biết là đã chết
Hoa rụng hoa nở, mùa xuân vô hạn
Đến tiết phục lạp, con cháu uổng công tưới rượu xuống đất
Giàu sang trên đời như mây nổi
Trăm năm rốt cuộc đều như thế
Quay đầu nhìn chỉ thấy một áng bụi mịt mùng

Dãy mồ rặng núi thông cao
Dọc ngang gò đống thủa nào người xưa
Tự đi tự đến hay chưa
Hoa rơi hoa nở cho vừa lòng xuân
Rượu nồng rưới mộ lan tràn
Giàu sang dưới thế như làn mây trôi
Trăm năm rốt ráo cuộc đời
Mênh mang ngoảnh lại rụng rơi bụi mờ

Dưới núi rặng thông lắm mộ phần
Người xưa gò đống đất ngổn ngang
Tự đi tự ở không ngờ chết
Hoa nở hoa rơi chẳng hết xuân
Ngày tiết cháu con tràn rượu tưới
Mây trôi phú quý suốt trần gian
Trăm năm rốt cuộc đều như thế
Nhìn lại mênh mang lớp bụi đường