30 tháng 11, 2011

Nguyễn Du Thi Thánh Việt Nam

Mời các bạn đọc lời bạt trong NDTTVN

Thân ái, 

KT

Lời bạt


Trong phần này tôi xin nêu một số chứng cớ vạch rõ chuyện cụ Nguyễn Du hoài Lê là hoàn toàn không có căn cứ để gióng lên tiếng chuông kêu gọi các bậc thạc học thâm nho để tâm khai triển, phân tích và diễn giải thật nhiều nhằm mục đích làm sáng tỏ vụ án này và trả lại công đạo cho Nhà Văn hóa Thế Giới và Nhà thơ Nhân Loại Nguyễn Du.

Tổng kết chữ lê xuất hiện 8 lần trong toàn bộ 7 tác phẩm cũa Nguyễn Du bao gồm 4 tập thơ chữ Nôm và 3 tập thơ Hán-Việt. Phân tích những bài thơ hoặc câu thơ chứa chữ lê đó thì cho dù có giàu trí tưởng tượng đến đâu ta cũng không tài nào liên kết - hoặc gần hoặc xa - đến nhà Lê mạt được cả.  Tóm lại, có thể nói Nguyễn Du không hề một lần nhắc đến triều đại nhà Lê trong văn thơ của ông một trách trực tiếp.  Ngoài ra, trong quá trình sưu tầm, kết tập văn bản và phiên dịch văn thơ Hán-Viết tôi đã đặc biệt gia tâm rà xét tất cả các tác phẩm nói trên nhưng tuyệt nhiên không thể nào  phát hiện một dấu vết nào – dù là ẩn dụ - về việc hoài Lê cả.

Cụ thể, chứ lê đã xuất hiện như sau trong các tác phẩm của Nguyễn Du.

Truyện Kiều có ba chữ:

Cành lê trắng điểm môt vài bông hoa. (câu 42)
Màu hoa lê hãy đầm đìa giọt mưa ?" (câu 226)
Bóng trăng đã xế, hoa lê lại gần. (câu 438)

Thác lời trai Phường Nón không có chữ lê
Văn tế hai cô gái Trường Lưu không có chữ lê
Văn tế thập loại chúng sinh có một chữ lê:

Dặm đường lê lác đác mưa sa (câu 6)

Thanh Hiên thi tập được chia ra thành 3 giai đoạn tách biệt:

Giai đoạn:1786-1795 ( mười năm gió bụi) – trong 30 bài thơ kết tập được, có duy nhất một chữ lê trong bài thơ sau đây. Câu thơ có chữ lê được nhấn sao (*) để tiện theo dõi.

Tạp ngâm

Đạp biến thiên nha hựu hải nha,
Càn khôn tuỳ tại tức vi gia.
Bình sinh bất khởi thương dăng niệm,
Kim cổ thuỳ đồng bạch nghị oa?
Liêu lạc tráng tâm hư đoản kiếm
Tiêu điều lữ muộn đối thời ca
Bế môn bất ký xuân thâm thiển,
Đản kiến đường lê lạc tận hoa. *

Chân mây góc bể dạo qua rồi
Đâu chẳng nhà ta giữa đất trời
Câu chuyện ruồi xanh đâu nghĩ tới
Cái hang mối trắng chẳng thèm chơi
Thời ca lắng mãi buồn thân khách
Đoản kiếm nhìn thêm thẹn chí trai.
Đóng cửa không hay xuân sớm muộn,
Đường lê hoa đã rụng tơi bời. *

Nguyễn Thạch Giang dịch

Chân mây góc bể qua rồi
Mênh mông vũ trụ đất trời quê hương
Ruồi xanh nào đáng vấn vương
Cái hang mối trắng nào thèm rong chơi
Kiếm cung thêm thẹn nghẹn lời
Tiêu điều nhà cửa một trời buồn tanh
Cửa cài nào biết xuân xanh
Hoa lê theo gió ngập tràn đường đi *

KT dịch

Góc biển chân mây đã đến rồi
Nhà ta tùy tiện khắp muôn nơi
Ruồi xanh hoài niệm không bàn tới
Mối trắng hang sâu chẳng muốn mời
Lòng chán thôi đành hư đoản kiếm
Nhạc buồn thêm đậm nỗi đơn côi
Cửa cài nào biết xuân sớm muộn
Đường ngập hoa lê mãi rụng rơi *

KT dịch


Giai đoạn: 1796-1802 (dưới chân núi Hồng) – trong 30 bài kết tập không có chữ lê nào cả.
Giai đoạn: 1802-1804 (làm quan Bắc Hà) – cũng thế, trong 18 bài kết tập không có chữ lê nào hết.


Nam Trung tạp ngâm (1805-1812) – trong 40 bài thơ kết tập được, có một chữ lê trong bài thơ sau.  Câu thơ có chữ lê được nhấn sao (*) để tiện theo dõi.

38.  Tống Ngô Nhữ Sơn công xuất trấn Nghệ An

Cẩm La giang thượng khấu chinh an
Bái hội phi nan tích biệt nan
Bát đại kỳ văn hoa lưỡng quốc
Nhất xa cao vũ nhuận toàn hoan
Nhân tòng đạm bạc tư vi chính
Thiên vị kiềm lê bất phóng nhàn *
Bắc vọng Hồng Sơn khai Đức diệu
Thiên nhai cử tửu khánh hương quan

Tiễn ông Ngô Nhữ Sơn ra trấn thủ Nghệ an

Ghìm cương tại bến Cẩm La
Gặp nhau không khó khó là xa nhau
Văn tài tám bậc bên Tầu
Thấm nhuần mưa móc dạt dào châu hoan
Giữ lòng đạm bạc việc quan
Dân đen còn khổ hưởng nhàn bỏ qua *
Núi Hồng sao Đức xa xa
Chân trời chén rượu gọi là mừng quê

KT dịch


Bắc hành tạp lục (1813-1814) – trong 132 bài thơ kết tập được, có 2 chữ lê trong các bài thơ phía sau.  Những câu thơ có chữ lê được đánh dấu sao (*) để tiện theo dõi.

81. Trở binh hành 

Kim tương tương, thiết tranh tranh
Xa mã trì sâu, kê khuyển minh
Tiểu hộ bất bế, đại hộ bế
Phù lão huề ấu di nhập thành
Bản địa lục nguyệt chí cửu nguyệt
Hoạt, Tuấn nhị huyện tề xưng binh
Tặc sát quan lại thập bát cửu
Mãn thành tây phong xuy huyết tinh
Cánh hữu Sơn Đông, Trực Lệ dao tương ứng
Bạch Liên  dị thuật đa thần linh
Châu quan văn tặc chí
Khiêu đăng chung dạ tịch dân đinh
Châu biền văn tặc chí
Ma lệ đao kiếm giát giát minh
Châu nhân văn tặc chí
Tam tam ngũ ngũ giao đầu tế ngữ thanh y anh
Hành nhân viễn lai bất giải sự
Đản văn thành ngoại tiến thoái giai pháo thanh
Nam nhất lộ giai chấn động
Vũ hịch cấp phát như phi tinh
Cổn cổn trần ai tế thiên nhật
Bộ kỵ nhất tung phục nhất hoành
Kỵ giả loan giác cung
Trường tiễn mãn hồ bạch vũ linh
Bộ giả kiên đoản sáo
Tân ma thiết nhận huyền chu anh
Hựu hữu tân điểm đinh tráng chi binh khí
Tước trúc vi thương bì thượng thanh
Đại xa tải cung chước
Tiểu xa trang tiêm đinh
Chung nhật vãng lai vô tạm đình
Sổ bách lý địa biến qua giáp
Đạo lộ ủng tắc vô nhân hành
Trường tống trường thán, đoản tống mặc
Tiến thoái duy cốc nan vi tình
Tạc nhật Hoàng Hà thủy đại chí
Ngũ nhật vô thực thê sa đinh
Kim nhật Vệ Châu trở đạo tặc
Bất tri tiền lộ hà thời thanh
An đắc phong xa nhật vạn lý
Phi thân nhất tức lai thiên kinh
Ngô văn nội cố tần niên khổ hoang hạn
Chỉ hữu xuân tác vô thu thành
Hồ Nam, Hà Nam cửu vô vũ
Tự xuân tồ thu điền bất canh
Đại nam tiểu nữ tần cơ sắc
Khang tì vi thực lê vi canh *
Nhãn kiến cơ biểu tử đương đạo
Hoài trung táo tử thân biên khuynh
Không ốc bích thượng hữu "tra" tự 
Sổ bách dư hộ giai cơ linh
Tiểu dân bất nhẫn hàn thả cơ
Cầu đồ bão úc thân vi khinh
Hoàng trì lộng giáp  bất túc đạo
Sảo gia tồn tuất đương tự bình
"Dân tử tại tuế bất tại ngã "
Vật đắc khi tâm tế thánh minh
Tạc kiến Tân Trịnh thành môn niêm bảng thị
Án hộ cấp túc tô tàn manh
Hoàng Hà dĩ bắc mạch hựu thục
Bách nhật nhi bối thê tử giai đắc sinh
Qui lai qui lai vật tác tử
Phủ thần huệ bảo như phụ huynh

Bài hành về việc binh đao làm nghẽn đường

Tiếng đồng tiếng sắt leo reo
Ngựa xe nhộn nhịp tiếng kêu chó gà
Giầu đóng nghèo mở cửa ra
Già trẻ lớn bé chạy a vào thành
Sáu trăng cho đến chín trăng
Hoạt Tuấn hai huyện lại bàn binh đao
Mười quan giặc giết còn hai
Khắp thành tanh máu gío tây nặng mùi
Sơn Đông Trực Lệ đồng đều
Bạch liên Giáo phái có nhiều phép linh
Quan nghe tin giặc rập rình
Suốt đêm thức trắng sổ đinh chong đèn
Võ quan nghe giặc mon men
Mài gươm vuốt giáo liên miên cả ngày
Dân nghe giặc đến sợ thay
Tụm năm tụm bảy thì thào nhỏ to
Khách xa mới đến âu lo
Đi lui đi tới nổ to ngoài thành
Nam náo động cả vùng
Công văn qua lại như lông ngỗng trời
Cát bay che lấp nắng ngời
Lính bộ lính kỵ bời bời dọc ngang
Kỵ binh cỡi ngựa đeo cung
Mang tên lông trắng để trong ống dài
Bộ binh giáo ngắn trên vai
Gươm đao mài bén cột dây hồng đào
Tráng đinh binh khí giắt vào
Vót tre làm giáo vỏ màu tươi xanh
Xe lớn thì chất đầy cung
Xe nhỏ chông nhọn gòn gàng xếp ngay
Đi qua đi lại như bay
Cả hàng trăm dặm chứa đầy binh đao
Đường đi tắc nghẽn khỏi vào
Quan viên đưa đón nói sao bây giờ
Tiến lui chẳng biết làm sao
Hôm qua nước lũ Hoàng Hà dâng cao
Năm ngày chẳng có hột nào
Nằm trên bờ cát giặc vào khi nao
Nghẽn đường biết đến là bao
Nằm mơ ước được bay cao lên trời
Kinh đô đến thẳng  tức thời
Nghe đồn dân khổ vì trời không mưa
Cày xuân không gặt mùa thu
Hồ Nam chẳng có giọt mưa sao cày
Xuân thu đồng ruộng không người
Nhỏ to nam nữ đói dài nằm queo
Không cơm ăn cỏ ăn bèo *
Buồn trông ốm đói tong teo gầy gò
Xác khô vương vãi táo khô
Trong nhà đề chữ đã vào kiểm tra
Người ta chết đói đầy nhà
Ngoài đường thây vất thật là thê lương
Dân đen chết bởi cơ hàn
Xem thường tính mạng làm càn làm điên
Múa may vũ khí huyên thuyên
Dân yên là bởi quan hiền giúp cho
Dối mình cùng dối đức vua
Tại trời dân chết ta đâu tội tình
Tân Trịnh yết bảng ngay thành
Định ngày phát gạo cứu dân cơ hàn
Hoàng Hà lúa mạch chín vàng
Dân ơi dân hỡi về làng ngay đi
Thôi đừng liều mạng làm chi
Cha anh đùm bọc quan thì yêu thương

129. Sở kiến hành 

Hữu phụ huề tam nhi
Tương tương tọa đạo bàng
Tiểu giả tại hoài trung
Ðại giả trì trúc khuông
Khuông trung hà sở thịnh
Lê hoắc tạp tì khang *
Nhật án bất đắc thực
Y quần hà khuông nhương
Kiến nhân bất ngưỡng thị
Lệ lưu khâm lang lang
Quần nhi thả hỉ tiếu
Bất tri mẫu tâm thương
Mẫu tâm thương như hà
Tuế cơ lưu dị hương
Dị hương sảo phong thục
Mễ giá bất thậm ngang
Bất tích khí hương thổ
Cẩu đồ cứu sinh phương
Nhất nhân kiệt dung lực
Bất sung tứ khẩu lương
Duyên nhai nhật khất thực
Thử kế an khả trường
Nhãn hạ ủy câu hác
Huyết nhục tự sài lang
Mẫu tử bất túc tuất
Phủ nhi tăng đoạn trường
Kỳ thống tại tâm đầu
Thiên nhật giai vị hoàng
Âm phong phiêu nhiên chí
Hành nhân diệc thê hoàng
Tạc tiêu Tây Hà  dịch
Cung cụ hà trương hoàng
Lộc cân tạp ngư xí
Mãn trác trần trư dương
Trưởng quan bất hạ trợ
Tiểu môn chỉ lược thường
Bát khí vô cố tích
Lân cẩu yếm cao lương
Bất tri quan đạo thượng
Hữu thử cùng nhi nương
Thùy nhân tả thử đồ
Trì dĩ phụng quân vương

Những điều trông thấy

Một tay mẹ dắt ba con
Cùng nhau ngồi cạnh bên đường cái quan
Nhỏ thời trong bụng mẹ nằm
Rổ tre em lớn tay cầm tay mang
Bên trong lắm thứ lăng nhăng
Rau lê rau hoắc chộn chung cám vàng *
Trưa rồi bụng chẳng hột cơm
Áo quần tơi tả thảm thương rụng rời
Mặt đâu dám ngẩng nhìn đời
Âu sầu vạt áo lệ rơi đôi dòng
Các con cười nói ung dung
Thấy đâu lòng mẹ đau thương não nề
Lòng đau sầu héo trăm bề
Tha phương cầu thực bỏ quê bỏ nhà
Nơi đâu thu hoạch đậm đà
Để cho giá gạo không là quá cao
Chỉ mong đủ sống xít sao
Cho dù bỏ xứ có nào dám than
Một tay kiệt sức tảo tần
Cũng không nuôi đủ bốn phần miệng ăn
Thôi đành khất thực xin cơm
Cách này tuy dở nhưng còn hơn không
Một mai bỏ xác bên sông
Thịt thì cọp đớp máu hồng sói xơi
Thân già mẹ chết thì thôi
Ôm con đau nhói trời ơi là trời
Lòng đau gan ruột rụng rời
Bầu trời ủ rũ tả tơi nắng vàng
Gió đâu hơi lạnh thổi tràn
Khách qua đường cũng nát tan cõi lòng
Trạm Tây Hạ mở liên hoan
Cực kỳ xa xỉ mâm bàn cỗ cao
Vây cá cùng với hươu sao
Đầy bàn dê lợn và gà mái tơ
Quan to ngài chăng thèm rờ
Quân hầu bên cạnh giả vờ nếm qua
Tiện tay quẳng thật rõ xa
Bỏ không luyến tiếc thịt thà chó chê
Nào hay trên bước đường quê
Mẹ con cùng quẩn tái tê dường này
Tranh này ai vẽ cho hay
Dâng lên thánh thượng cho ngài được xem

KT dịch

Tra trong Hán Việt Tự điển của Thiều Chửu thì chữ lê trong hai câu thơ Hán-Việt đánh dấu sao nói trên là một loại cỏ dại ăn được ở Trung Quốc.

 lê: Cỏ lê, rau lê. Lá non ăn được, thân làm gậy chống. Một tên là cỏ lai .

Sparrowgrass 2011


Không có nhận xét nào: