Thân ái,
KT
KT dịch
KT dịch
Nam Trung tạp ngâm (1805-1812) – trong 40
bài thơ kết tập được, có một chữ lê trong bài thơ sau. Câu thơ có chữ lê được nhấn sao (*) để tiện
theo dõi.
KT dịch
KT dịch
Lời bạt
Trong phần này tôi xin nêu một số chứng cớ vạch rõ chuyện cụ
Nguyễn Du hoài Lê là hoàn toàn không có căn cứ để gióng lên tiếng chuông kêu
gọi các bậc thạc học thâm nho để tâm khai triển,
phân tích và diễn giải thật nhiều nhằm mục đích làm sáng tỏ vụ án này và trả
lại công đạo cho Nhà Văn hóa Thế Giới và Nhà thơ Nhân Loại Nguyễn Du.
Tổng kết chữ lê xuất hiện 8 lần trong toàn bộ 7 tác phẩm cũa
Nguyễn Du bao gồm 4 tập thơ chữ Nôm và 3 tập thơ Hán-Việt. Phân tích những bài
thơ hoặc câu thơ chứa chữ lê đó thì cho dù có giàu trí tưởng tượng đến đâu ta
cũng không tài nào liên kết - hoặc gần hoặc xa - đến nhà Lê mạt được cả. Tóm lại, có thể nói Nguyễn Du không hề một
lần nhắc đến triều đại nhà Lê trong văn thơ của ông một trách trực tiếp. Ngoài ra, trong quá trình sưu tầm, kết tập
văn bản và phiên dịch văn thơ Hán-Viết tôi đã đặc biệt gia tâm rà xét tất cả
các tác phẩm nói trên nhưng tuyệt nhiên không thể nào phát hiện một dấu vết nào – dù là ẩn dụ - về
việc hoài Lê cả.
Cụ thể, chứ lê đã xuất hiện như sau trong các tác phẩm của
Nguyễn Du.
Truyện Kiều có ba
chữ:
Cành lê trắng điểm môt vài bông hoa. (câu 42)
Màu hoa lê hãy đầm đìa giọt mưa ?" (câu 226)
Bóng trăng đã xế, hoa lê lại gần. (câu 438)
Thác lời trai Phường Nón
không có chữ lê
Văn tế hai cô gái Trường
Lưu không có chữ lê
Văn tế thập loại chúng
sinh có một chữ lê:
Dặm đường lê lác đác mưa sa (câu 6)
Thanh Hiên thi tập
được chia ra thành 3 giai đoạn tách biệt:
Giai đoạn:1786-1795 ( mười năm gió bụi) – trong 30 bài thơ kết
tập được, có duy nhất một chữ lê trong bài thơ sau đây. Câu thơ có chữ lê được
nhấn sao (*) để tiện theo dõi.
Tạp ngâm
Đạp biến thiên nha hựu hải nha,
Càn khôn tuỳ tại tức vi gia.
Bình sinh bất khởi thương dăng niệm,
Kim cổ thuỳ đồng bạch nghị oa?
Liêu lạc tráng tâm hư đoản kiếm
Tiêu điều lữ muộn đối thời ca
Bế môn bất ký xuân thâm thiển,
Đản kiến đường lê lạc tận hoa. *
Càn khôn tuỳ tại tức vi gia.
Bình sinh bất khởi thương dăng niệm,
Kim cổ thuỳ đồng bạch nghị oa?
Liêu lạc tráng tâm hư đoản kiếm
Tiêu điều lữ muộn đối thời ca
Bế môn bất ký xuân thâm thiển,
Đản kiến đường lê lạc tận hoa. *
Chân mây góc bể dạo qua rồi
Đâu chẳng nhà ta giữa đất trời
Câu chuyện ruồi xanh đâu nghĩ tới
Cái hang mối trắng chẳng thèm chơi
Thời ca lắng mãi buồn thân khách
Đoản kiếm nhìn thêm thẹn chí trai.
Đóng cửa không hay xuân sớm muộn,
Đường lê hoa đã rụng tơi bời. *
Đâu chẳng nhà ta giữa đất trời
Câu chuyện ruồi xanh đâu nghĩ tới
Cái hang mối trắng chẳng thèm chơi
Thời ca lắng mãi buồn thân khách
Đoản kiếm nhìn thêm thẹn chí trai.
Đóng cửa không hay xuân sớm muộn,
Đường lê hoa đã rụng tơi bời. *
Nguyễn Thạch Giang dịch
Chân mây góc bể qua rồi
Mênh mông vũ trụ đất trời quê hương
Ruồi xanh nào đáng vấn vương
Cái hang mối trắng nào thèm rong chơi
Kiếm cung thêm thẹn nghẹn lời
Tiêu điều nhà cửa một trời buồn tanh
Cửa cài nào biết xuân xanh
Hoa lê theo gió ngập tràn đường đi *
Góc biển chân mây đã đến rồi
Nhà ta tùy tiện khắp muôn nơi
Ruồi xanh hoài niệm không bàn tới
Mối trắng hang sâu chẳng muốn mời
Lòng chán thôi đành hư đoản kiếm
Nhạc buồn thêm đậm nỗi đơn côi
Cửa cài nào biết xuân sớm muộn
Đường ngập hoa lê mãi rụng rơi *
Giai đoạn: 1796-1802 (dưới chân núi Hồng) – trong 30 bài kết
tập không có chữ lê nào cả.
Giai đoạn: 1802-1804 (làm quan Bắc Hà) – cũng thế, trong 18 bài
kết tập không có chữ lê nào hết.
38. Tống Ngô Nhữ Sơn
công xuất trấn Nghệ An
Cẩm La giang thượng khấu chinh an
Bái hội phi nan tích biệt nan
Bát đại kỳ văn hoa lưỡng quốc
Nhất xa cao vũ nhuận toàn hoan
Nhân tòng đạm bạc tư vi chính
Thiên vị kiềm lê bất phóng nhàn *
Bắc vọng Hồng Sơn khai Đức diệu
Thiên nhai cử tửu khánh hương quan
Tiễn ông Ngô Nhữ Sơn ra trấn thủ Nghệ an
Ghìm cương tại bến Cẩm La
Gặp nhau không khó khó là xa nhau
Văn tài tám bậc bên Tầu
Thấm nhuần mưa móc dạt dào châu hoan
Giữ lòng đạm bạc việc quan
Dân đen còn khổ hưởng nhàn bỏ qua *
Núi Hồng sao Đức xa xa
Chân trời chén rượu gọi là mừng quê
Bắc hành tạp lục
(1813-1814) – trong 132 bài thơ kết tập được, có 2 chữ lê trong các bài thơ
phía sau. Những câu thơ có chữ lê được
đánh dấu sao (*) để tiện theo dõi.
81. Trở binh hành
Kim tương tương, thiết tranh
tranh
Xa mã trì sâu, kê khuyển
minh
Tiểu hộ bất bế, đại hộ bế
Phù lão huề ấu di nhập thành
Bản địa lục nguyệt chí cửu
nguyệt
Hoạt, Tuấn nhị huyện tề xưng
binh
Tặc sát quan lại thập bát
cửu
Mãn thành tây phong xuy
huyết tinh
Cánh hữu Sơn Đông, Trực Lệ
dao tương ứng
Bạch Liên dị thuật đa thần linh
Châu quan văn tặc chí
Khiêu đăng chung dạ tịch dân
đinh
Châu biền văn tặc chí
Ma lệ đao kiếm giát giát
minh
Châu nhân văn tặc chí
Tam tam ngũ ngũ giao đầu tế
ngữ thanh y anh
Hành nhân viễn lai bất giải
sự
Đản văn thành ngoại tiến
thoái giai pháo thanh
Hà Nam nhất lộ
giai chấn động
Vũ hịch cấp phát như phi
tinh
Cổn cổn trần ai tế thiên
nhật
Bộ kỵ nhất tung phục nhất
hoành
Kỵ giả loan giác cung
Trường tiễn mãn hồ bạch vũ
linh
Bộ giả kiên đoản sáo
Tân ma thiết nhận huyền chu
anh
Hựu hữu tân điểm đinh tráng
chi binh khí
Tước trúc vi thương bì
thượng thanh
Đại xa tải cung chước
Tiểu xa trang tiêm đinh
Chung nhật vãng lai vô tạm
đình
Sổ bách lý địa biến qua giáp
Đạo lộ ủng tắc vô nhân hành
Trường tống trường thán,
đoản tống mặc
Tiến thoái duy cốc nan vi
tình
Tạc nhật Hoàng Hà thủy đại
chí
Ngũ nhật vô thực thê sa đinh
Kim nhật Vệ Châu trở đạo tặc
Bất tri tiền lộ hà thời
thanh
An đắc phong xa nhật vạn lý
Phi thân nhất tức lai thiên
kinh
Ngô văn nội cố tần niên khổ
hoang hạn
Chỉ hữu xuân tác vô thu
thành
Hồ Nam , Hà Nam cửu vô vũ
Tự xuân tồ thu điền bất canh
Đại nam tiểu nữ tần cơ sắc
Khang tì vi thực lê vi canh
*
Nhãn kiến cơ biểu tử đương
đạo
Hoài trung táo tử thân biên
khuynh
Không ốc bích thượng hữu
"tra" tự
Sổ bách dư hộ giai cơ linh
Tiểu dân bất nhẫn hàn thả cơ
Cầu đồ bão úc thân vi khinh
Hoàng trì lộng giáp bất túc đạo
Sảo gia tồn tuất đương tự
bình
"Dân tử tại tuế bất tại
ngã "
Vật đắc khi tâm tế thánh
minh
Tạc kiến Tân Trịnh thành môn
niêm bảng thị
Án hộ cấp túc tô tàn manh
Hoàng Hà dĩ bắc mạch hựu
thục
Bách nhật nhi bối thê tử
giai đắc sinh
Qui lai qui lai vật tác tử
Phủ thần huệ bảo như phụ
huynh
Bài hành về việc binh đao làm
nghẽn đường
Tiếng đồng tiếng sắt leo reo
Ngựa xe nhộn nhịp tiếng kêu
chó gà
Giầu đóng nghèo mở cửa ra
Già trẻ lớn bé chạy a vào
thành
Sáu trăng cho đến chín trăng
Hoạt Tuấn hai huyện lại bàn
binh đao
Mười quan giặc giết còn hai
Khắp thành tanh máu gío tây
nặng mùi
Sơn Đông Trực Lệ đồng đều
Bạch liên Giáo phái có nhiều
phép linh
Quan nghe tin giặc rập rình
Suốt đêm thức trắng sổ đinh
chong đèn
Võ quan nghe giặc mon men
Mài gươm vuốt giáo liên miên
cả ngày
Dân nghe giặc đến sợ thay
Tụm năm tụm bảy thì thào nhỏ
to
Khách xa mới đến âu lo
Đi lui đi tới nổ to ngoài
thành
Hà Nam náo động cả
vùng
Công văn qua lại như lông
ngỗng trời
Cát bay che lấp nắng ngời
Lính bộ lính kỵ bời bời dọc
ngang
Kỵ binh cỡi ngựa đeo cung
Mang tên lông trắng để trong
ống dài
Bộ binh giáo ngắn trên vai
Gươm đao mài bén cột dây
hồng đào
Tráng đinh binh khí giắt vào
Vót tre làm giáo vỏ màu tươi
xanh
Xe lớn thì chất đầy cung
Xe nhỏ chông nhọn gòn gàng
xếp ngay
Đi qua đi lại như bay
Cả hàng trăm dặm chứa đầy
binh đao
Đường đi tắc nghẽn khỏi vào
Quan viên đưa đón nói sao
bây giờ
Tiến lui chẳng biết làm sao
Hôm qua nước lũ Hoàng Hà
dâng cao
Năm ngày chẳng có hột nào
Nằm trên bờ cát giặc vào khi
nao
Nghẽn đường biết đến là bao
Nằm mơ ước được bay cao lên
trời
Kinh đô đến thẳng tức thời
Nghe đồn dân khổ vì trời
không mưa
Cày xuân không gặt mùa thu
Hồ Nam chẳng có
giọt mưa sao cày
Xuân thu đồng ruộng không
người
Nhỏ to nam nữ đói dài nằm
queo
Không cơm ăn cỏ ăn bèo *
Buồn trông ốm đói tong teo
gầy gò
Xác khô vương vãi táo khô
Trong nhà đề chữ đã vào kiểm
tra
Người ta chết đói đầy nhà
Ngoài đường thây vất thật là
thê lương
Dân đen chết bởi cơ hàn
Xem thường tính mạng làm càn
làm điên
Múa may vũ khí huyên thuyên
Dân yên là bởi quan hiền
giúp cho
Dối mình cùng dối đức vua
Tại trời dân chết ta đâu tội
tình
Tân Trịnh yết bảng ngay
thành
Định ngày phát gạo cứu dân
cơ hàn
Hoàng Hà lúa mạch chín vàng
Dân ơi dân hỡi về làng ngay đi
Thôi đừng liều mạng làm chi
Cha anh đùm bọc quan thì yêu
thương
129. Sở kiến hành
Hữu phụ huề tam nhi
Tương tương tọa đạo bàng
Tiểu giả tại hoài trung
Ðại giả trì trúc khuông
Khuông trung hà sở thịnh
Lê hoắc tạp tì khang *
Nhật án bất đắc thực
Y quần hà khuông nhương
Kiến nhân bất ngưỡng thị
Lệ lưu khâm lang lang
Quần nhi thả hỉ tiếu
Bất tri mẫu tâm thương
Mẫu tâm thương như hà
Tuế cơ lưu dị hương
Dị hương sảo phong thục
Mễ giá bất thậm ngang
Bất tích khí hương thổ
Cẩu đồ cứu sinh phương
Nhất nhân kiệt dung lực
Bất sung tứ khẩu lương
Duyên nhai nhật khất thực
Thử kế an khả trường
Nhãn hạ ủy câu hác
Huyết nhục tự sài lang
Mẫu tử bất túc tuất
Phủ nhi tăng đoạn trường
Kỳ thống tại tâm đầu
Thiên nhật giai vị hoàng
Âm phong phiêu nhiên chí
Hành nhân diệc thê hoàng
Tạc tiêu Tây Hà dịch
Cung cụ hà trương hoàng
Lộc cân tạp ngư xí
Mãn trác trần trư dương
Trưởng quan bất hạ trợ
Tiểu môn chỉ lược thường
Bát khí vô cố tích
Lân cẩu yếm cao lương
Bất tri quan đạo thượng
Hữu thử cùng nhi nương
Thùy nhân tả thử đồ
Trì dĩ phụng quân vương
Những điều trông thấy
Một tay mẹ dắt ba con
Cùng nhau ngồi cạnh bên
đường cái quan
Nhỏ thời trong bụng mẹ nằm
Rổ tre em lớn tay cầm tay
mang
Bên trong lắm thứ lăng nhăng
Rau lê rau hoắc chộn chung
cám vàng *
Trưa rồi bụng chẳng hột cơm
Áo quần tơi tả thảm thương
rụng rời
Mặt đâu dám ngẩng nhìn đời
Âu sầu vạt áo lệ rơi đôi
dòng
Các con cười nói ung dung
Thấy đâu lòng mẹ đau thương
não nề
Lòng đau sầu héo trăm bề
Tha phương cầu thực bỏ quê
bỏ nhà
Nơi đâu thu hoạch đậm đà
Để cho giá gạo không là quá
cao
Chỉ mong đủ sống xít sao
Cho dù bỏ xứ có nào dám than
Một tay kiệt sức tảo tần
Cũng không nuôi đủ bốn phần
miệng ăn
Thôi đành khất thực xin cơm
Cách này tuy dở nhưng còn
hơn không
Một mai bỏ xác bên sông
Thịt thì cọp đớp máu hồng
sói xơi
Thân già mẹ chết thì thôi
Ôm con đau nhói trời ơi là
trời
Lòng đau gan ruột rụng rời
Bầu trời ủ rũ tả tơi nắng
vàng
Gió đâu hơi lạnh thổi tràn
Khách qua đường cũng nát tan
cõi lòng
Trạm Tây Hạ mở liên hoan
Cực kỳ xa xỉ mâm bàn cỗ cao
Vây cá cùng với hươu sao
Đầy bàn dê lợn và gà mái tơ
Quan to ngài chăng thèm rờ
Quân hầu bên cạnh giả vờ nếm
qua
Tiện tay quẳng thật rõ xa
Bỏ không luyến tiếc thịt thà
chó chê
Nào hay trên bước đường quê
Mẹ con cùng quẩn tái tê
dường này
Tranh này ai vẽ cho hay
Dâng lên thánh thượng cho
ngài được xem
Tra trong Hán Việt Tự điển của Thiều Chửu thì chữ lê trong hai
câu thơ Hán-Việt đánh dấu sao nói trên là một loại cỏ dại ăn được ở Trung Quốc.
藜
lê: Cỏ lê, rau lê. Lá
non ăn được, thân làm gậy chống. Một tên là cỏ lai 萊.
Sparrowgrass 2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét