24 bài thơ xướng họa
của Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị
Đồng thời cũng là dịp đọc lại trang sử Việt Nam Cận Đại lúc Thực dân Pháp xâm chiếm Tổ Quốc Chúng Ta với sự hổ trợ cuồng nhiệt của Cường Lực Giáo Quyền Quốc Tế .
24 bài thơ đường luật xướng họa, thể hiện một cuộc bút chiến giữa hai phe .
Kính mời Quý Liệt Vị Trưởng Thượng nhận xét và phẩm bìnhMột bên là :
Tân tòng Da Tô giáo, tay sai Thực dân Pháp và Sĩ phu Văn Thân chống Pháp và Cường quyền
thực hiện nền Thống trị trên quê hương VN quyết dành lại Độc lập cho quê hương VN
Bài xướng : Tôn Thọ Tường
Xướng :
Giang san ba tỉnh hảy còn đây,
Trời đất xui chi đến nỗi này ?
Chớp nhoáng thẳng bom dây thép kéo, Bến Nghé quản bao cơn lửa cháy,
Mây tuôn đen kịt khói tàu bay.
Xăn văn thầm tính, thương đòi chổ, Nuôi muông giết thỏ còn chờ thủa,
Khấp khởi riêng lo, biết những ngày. Bủa lưới săn nai cũng có ngày.
Miệng cọp hàm rồng, chưa dễ chọc, Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ,
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay ! Lòng ta sắt đá há lung lay !
Thày lay lại chuốc lấy danh nhơ, Thày lay lòng sắt đã mang nhơ,
Ai mượn mình lo chuyện bá vơ ? Chẳng xét phận mình khéo nói vơ !
Trẻ dại, giếng sâu, lòng chẳng nỡ, Người trí mảng lo danh chẳng chói,
Đường xa, ngày tối, tuổi không chờ. Đứa ngu mới sợ tuổi không chờ.
Áo xiêm chán thấy xăn tay thợ, Bài hòađã sẳn trong tay thợ,
Xe ngựa nào toan gỡ nước cờ. Việc đánh chưa thua giống cuộc cờ.
Rủi rủi may may đâu đã chắc , Chưa trả thù nhà đền nợ nước,
Miệng lằn lưỡi mối hãy tai ngơ ! Dám đâu mắt lấp lại tai ngơ !
Bài 3
Tai ngơ mắt lấp buổi tan tành, Tai ngơ sao được lúc tan tành,
Nghĩ việc đời thêm hổ việc mình. Luống biết trách người chẳng trách mình.
Nghi ngút tro tàn nhà đạo nghĩa, Đến thế còn khoe danh đạo nghĩa,
Lờ mờ bụi đóng cửa trâm anh Như vầy cũng gọi cửa trâm anh.
Hai bên vai gánh ba giềng nặng, Khe sâu vụng tính dung thuyền nhỏ,
Trăm tạ chuông treo một sợi mành. Chuông nặng to gan buộc chỉ mành.
Trâu ngựa dầu kêu, kêu cũng chịu, Thân có, ắt danh tua phải có,
Thân còn chẳng kể, kể chi danh ! Khuyên người ái trọng cái thân danh.
Bài 4
Kể chi danh phận lúc tan hoang, Thân danh chẳng kể, thiệt thằng hoang!
Biển rộng trời cao nghĩ lại càng. Đốt sáp nên tro lụy chẳng càn ...
Lên núi bắt hùm chưa dể láo, Hai cửa trâm anh xô sấp ngữa,
Vào sông đánh cá, há rằng oan. Một nhà danh giáo xáo tan hoang.
Người giương mắt ngạo đôi tròng bạc, Con buôn khấp khởi chưa từng ngọc,
Kẻ ứa gan trung bảy lá vàng. Người khó xăn văn mới gặp vàng.
Chiu chít thương bầy gà mất mẹ, Thương kẻ đồng văn nên phải nhắc,
Cũng là gắng gỏi, dám khoe khoang ! Dễ ta đâu dám tiếng khoe khoang.
Bài 5
Khoe khoang sức giỏi cậy tài khôn. Khoe khoang việc phải mới rằng khôn.
Múa mép khua môi cũng một phồn. Kẻ vạy người ngay há một phồn !
Tơ vấn cánh ruồi kinh trí nhện, Hồng dẫu hư lông đâu sợ sẻ,
Gió đưa hơi cọp khiếp oai chồn. Hùm như thất thế dễ thua chồn.
Siêng lo há đợi cơm kề miệng, Ngươi Nhan sá ngại dao kề lưỡi,
Chậm tính nào ngờ nước đến trôn. Họ Khuất nào lo nước đến trôn.
Hay dở chuyện đời còn lắm lối, Tháy máy gặp thời ta sẽ động,
Múa men xin hãy chớ bôn chôn.
Hảy chớ bôn chôn việc cửa nhà, Bôn chôn cũng bởi bận vì nhà,
Sau này còn ngại nỗi đàng xa.
Ma duồng cơn ngặt lung hai trẻ, Hăm hở hãy đang hăng sức trẻ,
Trời mỏn lòng thương xót một già. Chìu lòn e cũng mỏn hơi già.
Lái đã vững vàng cơn sóng lượn, Mồi thơm cá quý câu không nhạy,
Thoi toan đan dệt lúc mưa sa. Cung yếu chim cao bắn chẳng sa.
Ở đời há dễ quên đời được, Đáy giếng trông trời giương mắt ếch,
Tình thiệt so hơn cũng gọi là ... Làm người như vậy cũng rằng là ...
Bài 7
Cũng gọi là người ắt phải lo, Rằng là người trí cũng xa lo,
Có hay chịu khó mới nên trò. Nhuần nhã kinh luân mới phải trò.
Bạc mông mênh biển cầu toan bắc, Ngay vạy nảy ra cho biết mực,
Xanh mịt mù trời thước rắp đo. Thấp cao trông thấy há rằng đo.
Nước ngược chống lên thuyền một mái, Xe Châu nào đợi kinh năm bộ,
Gác cao bó lại sách trăm pho. Níp Tống vừa đầy sách nửa pho.
Lòng này dầu hỏi mà không hổ, Chuốc miệng khen người nên cắc cớ:
Lặng xét thầm soi cũng biết cho Đạo trời ghét vạy há soi cho !
Bài 8
Đã biết cho chưa, hỡi những người, Soi cho cũng biết ấy là người.
Xin đừng tiếc hận, chớ chê cười ! Chẳng tiếc thân danh, luống sợ cười;
Ví dầu, vật ấy còn roi dấu, Ba cõi may dầu in lại cũ,
Bao quản thân này chịu dể ngươi. Đôi tròng trông đã thấy không ngươi.
Trăng giữa ba thu mây cũng tỏ, Ngọc lành nhiều vết coi sao lịch,
Hoa trong chín hạ nắng càng tươi. Thợ vụng ít màu nhuộm chẳng tươi.
Khó lòng mình biết lòng mình khó. Đứa dại trót đời, già cũng dại,
Lòn lỏi công trình kể mấy mươi. Lựa là tuổi mới một đôi mươi.
Bài 9
Kể mấy mươi năm nước lễ văn, Một đôi mươi uổng tính xăn văn,
Rắn dài, beo lớn, thế khôn ngăn; Đất lở ai mà dễ dám ngăn ?
Bốn đời, chung đội ơn nuôi dạy, Nong nả dốc vun nền đạo nghĩa,
Ba tỉnh, riêng lo việc ở ăn. Xốn xang nào tưởng việc làm ăn.
Hết sức người theo trời chẳng kịp, Thương người vì nước ngồi không vững,
Hoài công chim lấp biển không bằng. Trách kẻ cầm cân kéo chẳng bằng.
Phải sao chịu vậy thôi thì chớ, Gió mạnh mới hay cây cỏ cứng,
Nhắm mắt đưa chân lỗi đạo hằng. Dõi theo người trước giữ năm hằng.
Bài 10
Đạo hằng chi trước thảo cùng ngay, Năm hằng vốn thiệt thảo cùng ngay,
Lỗi đạo sao cho đáng mặt thầy. Cuộc ấy ai xui khéo bận thầy.
Đất quét đã đành bia lỗ miệng, Gặp lúc chẳng may nên ngậm miệng,
Chén tràn e nỗi trở bàn tay. Chờ khi tháy máy sẽ ra tay.
Nghĩa đen dạy trẻ tranh còn lấp, Nổi chìm mặt thế tình dày mỏng,
Mặt trắng xem trời cánh khó bay. Cao thấp dầu ta sức nhảy bay.
Chí muốn ngày nào cho được toại ? Một trận gió đưa xiêu ngã cỏ,
Giang san ba tỉnh hãy còn đây ! Hơn thua chưa quyết đó cùng đây.
Tôn Phu Nhân quy Thục
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng, Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng,
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông! Mặt ngã trời chiều biệt cõi Đông.
Lìa Ngô, bịn rịn chòm mây bạc, Ngút tỏa đồi Ngô ùn sắc trắng,*
Về Hán, trau tria mảnh má hồng Duyên về đất Thục đượm màu hồng.
Son phấn thà cam dày gió bụi, Hai vai tơ tóc bền trời đất,
Đá vàng chi để thẹn núi sông . Một gánh cang thường nâng núi sông
Ai về nhắn với Châu Công Cẩn : Anh hởi ! Tôn Quyền : anh có biết ?
Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng. Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng.
Thảo đâu dám sánh kẻ cày voi,* Quá bị trên đầu nhát búa voi,
Muối xát lòng ai, nấy mặn mòi.
Ở Hán hãy còn nhiều cột cả,
Về Tào chi sá một cây còi !
Bâng khuâng nhớ mẹ khôn nâng chén, Đất Hứa nhớ thân sa giọt tủi,**
Bịn rịn trông vua biếng giở roi. Thành Tương mến chúa nhẹ tay roi!
Chẳng đặng khôn Lưu đành dại Ngụy, Về Tào miệng ngậm như bình kín,
Thân này xin gác ngoại vòng thoi! Trân trọng lời vàng đáng mấy thoi ?
* Vua Thuấn đi cày bằng voi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét