27 tháng 7, 2012

Bắc hành tạp lục - Thương Ngô Trúc chi ca

27. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 01 

Quế Lâm tân lạo dũng trường xuyên,
Thủy ốc bằng cao dục thướng thiên.
Ngọ hậu đông phong xuy cấp cánh,
Vãng lai vô số Quảng đông thuyền.

蒼梧竹枝歌其一 `
桂林新潦涌長川
水屋憑高欲上天
午後東風吹更急
往來無數廣東船
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 01
Nước lụt Quế Lâm thật mênh mông,
Trời gần bè thả cao trên sông.
Quá trưa thêm mạnh gió đông,
Lưu hành vô số thuyền bè Quảng Đông

Quế Lâm lụt mới ngập tràn
Nhà bè lũ xiết nước dâng tận trời
Quá trưa gió thổi ngút ngời
Quảng Đông vô kể ngược xuôi những thuyền

Quế Lâm nước lụt thật mênh mông
Dâng thẳng nhà bè dọc bến sông
Quá ngọ gió đông thêm thổi mạnh
Thuyền bè xứ Quảng lại càng đông

28. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 02


Văn Xương các thượng dạ đăng minh.
Nhất phiến hàn quang xạ thuỷ tinh.
Lai vãng du thuyền bất tri số.
Mãn giang tề phát trạo ca thanh. 
蒼梧竹枝歌其二
文昌閣上夜燈明
一片寒光射水晶
來往遊船不知數
滿江齊發棹哥聲
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 02
Ban đêm đèn sáng ngời trên gác Văn Xương,
Một màng nước lạnh chiếu sáng như gương.
Thuyền bè qua lại nhiều vô kể,
Khắp sông vang vọng lời ca chèo thuyền.

Văn Xương đèn sáng thâu đêm
Chiếu lên mặt nước lạnh lùng thủy tinh
Lại qua vô số con thuyền
Chèo đua ca hát tưng bừng trên sông

Thâu đêm đèn sáng gác Văn Xương
Nước lạnh chiếu lên sáng tựa gương
Qua lại thuyền bè vô số kể
Khắp sông ầm ĩ tiếng ca vang

29. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 03


Vũ tự bàng đà vân tự si,
Cửu Nghi  sơn sắc vọng trung nghi.
Ngu Vương  táng xứ vô khâu mộ,
Thuỷ diện huyền thanh tự nhị phi .

蒼梧竹枝歌其三
雨自滂沱雲自癡
九疑山色望中疑
虞王葬處無丘墓
水面絃聲似二妃
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 03
Mưa rơi tầm tã, mây lững lờ
Núi Cửu Nghi nhạt nhòa trong xa mờ.
Nơi chôn vua Thuấn không có mộ
Tiếng đàn trên mặt nước nghe của hai bà phi

Thẫn thờ tầm tã mây mưa
Cửu Nghi núi đá cũng mờ sắc xanh
Vua Ngu chết chẳng mộ phần
Hai phi sóng nước tiếng đàn còn vương

Mây lững lờ mưa rơi tầm tã
Núi Cửu Nghi sắc đá mờ xa
Vua Ngu mộ chẳng tìm ra
Tiếng đàn trên nước tựa là hai phi

Mây lững lờ trôi mưa nặng rơi
Cửu Nghi sắc đá nhạt chân trời
Vua Ngu mất xác không còn mộ
Điệu nhạc hai phi mặt sóng trôi

30. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 04


Thanh sơn lâu các nhất tằng tằng,
Trú kiến yên hà dạ kiến đăng.
Cổ tự vô danh nan vấn tấn,
Bạch vân thâm xứ ngọa sơn tăng.

蒼梧竹枝歌其四
青山樓閣一層層
晝見煙霞夜見燈
古寺無名難問訊
白雲深處臥山僧
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 04
Núi xanh, lầu cao hàng lớp lớp,
Ngày thấy mây khói, tối ánh đèn.
Chùa cũ không tên biết hỏi ai,
Trong lớp mây trắng nhà sư nằm.
 

Núi xanh lầu gác chập chồng
Ngày nhìn mây khói đêm trông đèn cầy
Chùa xưa nào biết hỏi ai
Rừng sâu mây trắng một hai thầy chùa

Núi xanh lầu gác lớp chồng chồng
Tối thấy đèn cầy sáng khói xông
Chùa cũ không tên nhưng khó hỏi
Rừng sâu mây trắng ẩn sư ông

31.Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 05


Lãng hoa song trạo tật như phi,
Khán bãi long châu để mộ qui
Sinh diện tương phùng vô úy tị,
Hồ tê vi lộ tiếu Nam di.

蒼梧竹枝歌其五
浪花雙棹疾如飛
看罷龍舟抵暮歸
生面相逢無畏避
瓠犀微露笑南夷
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 05
Đôi chèo thuyền quẩy sóng lướt như bay,
Xem cuộc đua thuyền rồng đến chiều về.
Gặp người lạ chẳng hề e ngại,
Hé răng hạt bầu cười thấy người khách phương Nam.
   
Đôi chèo rẽ sóng như bay
Đua thuyền xem hội tối ngay mới về
Gặp nhau người lạ không e
Hạt bầu răng trắng người quê mỉm cười

Đôi chèo rẽ sóng lướt như bay
Xem hội thuyền đua đến tối ngày
Mặt lạ gặp nhau không tránh né
Mỉm cười răng khểnh liếc đưa mày

32. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 06

Nhất thanh liệt trúc tán lưu hoàng
Kinh khởi sa đinh nhạn sổ hàng
Thiên tế giao chiêm qui khứ xứ
Thương Ngô bắc thướng định Hành Dương . 
蒼梧竹枝歌其六
一聲裂竹散硫磺
驚起沙汀鴈數行
天際遙瞻歸去處
蒼梧北上定衡陽
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 06
Một tiếng pháo nổ, khói lưu hoàng bốc ra
Đàn nhạn kinh hãi từ bãi cát bay lên
Nhìn trời xem bay về phương nào
Từ Thương Ngô bay lên Bắc đoán là đến Hành Dương.

Pháo tung khét thuốc lưu hoàng
Hoảng kinh đàn nhạn sổ hàng bay cao
Vọng trông khuất nẻo xứ nào
Thương Ngô phương bắc ắt vào Hành Dương

Nổ vang pháo trúc khói lưu hoàng
Kinh hoảng nhạn bay bãi cát hoang
Khuất nẻo chân trời mây lãng đãng
Thương Ngô phương bắc ắt Hành Dương

33. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 07

Trường giang ba lãng diểu vô nhai,
Tam ngũ du thuyền sấn dạ khai.
Vô nguyệt vô đăng khán bất kiến,
Tỳ bà thanh tự thuỷ trung lai.

蒼梧竹枝歌其七
長江波浪渺無涯
三五遊船趁夜開
無月無燈看不見
琵琶聲自水中來
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 07
Sông lớn sóng nước chẳng thấy bờ,
Ba năm thuyền lướt trong đêm.
Không trăng không đèn nhìn chẳng rõ,
Tiếng tì bà đâu đó vẳng trên sông.

Nước to sóng lớn mênh mông
Năm ba thuyền bé giữa dòng ban đêm
Không trăng lại chẳng có đèn
Tỳ bà văng vẳng tiếng đàn trên sông

Nước to sóng lớn trải mênh mông
Dăm chiếc thuyền con lội giữa dòng
Không ánh trăng đèn nhìn chẳng rõ
Tỳ bà thấp thoáng vẳng trên sông

34. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 08

Kê Lung sơn tại thuỷ trung ương,
Vạn khoảnh yên ba cộng diểu mang.
Tương ước đông gia cụ chu tiếp,
Thiên phi các thượng cộng phần hương.

蒼梧竹枝歌其八
雞籠山在水中央
萬頃煙波共渺茫
相約東家具舟楫
天妃閣上共焚香
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 08
Kê Lung núi ở giữa dòng sông,
Khói sóng vạn lớp trải trập trùng.
Đã hẹn chủ thuyền cùng sửa soạn,
Viếng gác Thiên phi cùng thắp nhang

Kê Lung núi ở giữa dòng
Mênh mông con nước chập chùng sóng đưa
Hẹn cùng bác lái ban trưa
Để lên Thiên Các cùng nhau cúng trời

Ngay giữa dòng sông núi Kê Lung
Khói mờ lớp lớp sóng muôn trùng
Chủ thuyền có hẹn cùng đi lễ
Trên gác Thiên phi thắp nén nhang

Kê Lung ngọn núi giữa dòng sông
Vạn lớp khói mây trải chập chùng
Có hẹn chủ thuyền cùng sửa lễ
Thiên Phi viếng gác thắp cây nhang

35. Thương ngô trúc chi ca kỳ 09

Thành bắc sơn lựu hồng cánh hồng,
Thành nam thùy liễu bất câm phong.
Nhứ phi hoa lạc vô nhân quản,
Nhất dạ tuỳ lưu đáo Quảng Đông.

蒼梧竹枝歌其九
城北山榴紅更紅
城南垂柳不禁風
絮飛花落無人管
一夜隨流到廣東
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 09
Phía bắc thành lựu núi hồng thêm hồng,
Nơi thành nam liễu rủ gió thổi tung.
Liễu bay hoa rơi rụng không người biết,
Một đêm xuôi dòng ghé Quảng Đông.
   

Bắc thành màu lựu thêm hồng
Thành nam rặng liễu gió tung rối bời
Hoa bay tơi tả rụng rơi
Quảng Đông một buổi thuyền bơi theo dòng

Phía bắc lựu hoang lại thắm hồng
Phía nam liễu rũ gió bay tung
Tơ rơi hoa rụng không ai biết
Một tối theo dòng ghé Quảng Đông

36. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 10

Ban trúc  yên đồng xích nhị trường,
Trà âu phù động Vũ Tiền hương.
Nhất lai nhất vãng nhân vô vấn,
Độc ỷ thuyền song chính hận lang.
蒼梧竹枝歌其十
斑竹煙筒尺二長
茶甌浮動雨前香
一來一往無人問
獨倚船窗正恨郎
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô kỳ 10
Ống điếu trúc đốm dài thước hai,
Trà Vũ Tiền một bình thơm ngát.
Thấy người qua lại chẳng hỏi chuyện,
Tựa song cửa nàng kia trông như giận chồng.

Thước hai ống điếu trúc bông
Vũ Tiền trà đậm hương nồng khói bay
Người qua kẻ lại nào hay
Trên thuyền tựa cửa đúng ngay giận chồng

Ống điếu trúc bông dài thước hai
Vũ Tiền trà đậm ngát hương bay
Thấy người qua lại không để ý
Tựa cửa cô kia chồng vẫn cay

37. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 1

Thập chích long châu nhất tự trần,
Xao la qua cổ điếu Linh quân .
Hoàng hoa khuê nữ tham hành lạc,
Khiêu xuất thuyền đầu bất tị nhân. 

蒼梧竹枝歌其十
斑竹煙筒尺二長
茶甌浮動雨前香
一來一往無人問
獨倚船窗正恨郎
 
Dịch nghĩa
Điệu caTrúc chi đất Thương Ngô bài 11
Mười chiếc thuyền rồng bày hàng chữ nhất
Khua thanh la đánh trống cúng Linh Quân
Cô gái cài hoa cúc mải vui
Nhảy lên đầu thuyền không tránh người

Thuyền rồng mười chiếc thẳng hàng
Linh quân cúng tế ầm ầm trống chiêng
Mải vui cô gái vô duyên
Đầu thuyền nhảy tọt chẳng kiêng gì người

Mười chiếc thuyền hoa thẳng một hàng
Khua chiêng gióng trống cúng Linh Quân
Cô nàng cài cúc say mê ngó
Nhảy tọt đầu thuyền chẳng nể nang

38. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 12

Đường chu lan trạo nhật tân phân,
Vãng vãng lai lai bất yếm tần.
Ký thủ hoạ thuyền tam ngũ chích,
Tối phong lưu thị bố y nhân. 
蒼梧竹枝歌其十二
棠舟蘭棹日繽紛
往往來來不厭頻
記取畫船三五隻
最風流是布衣人
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 12
Thuyền gỗ đường, chèo gỗ lan nhộn nhịp cả ngày,
Đi đi lại lại không nghỉ ngơi.
Tay viết vẽ xuống ba năm chiếc thuyền,
Lịch lãm nhất là người mặc áo vải.

Thuyền gỗ đường chèo gỗ lan
Đi qua đi lại cơ man dập dình
Năm ba thuyền vẽ lại hình
Những người áo vải thật tình phong lưu

Thuyền gỗ, chèo lan mãi dập dình
Đi qua đi lại chẳng làm thinh
Tiện tay vẽ xuống thuyền vài chiếc
Áo vải dân chơi rất thật tình

Chèo lan, thuyền gỗ nhộn trên sông
Đi lại đi qua thật rất đông
Tay vẽ thuyền nan năm ba chiếc
Dân chơi áo vải rõ oai phong

39. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 13

Duyên thành dương liễu bất thăng nhu,
Diệp diệp ti ti vị cập thu
Hảo hướng phong tiền khán dao duệ,
Tối điên cuồng xứ tối phong lưu 
蒼梧竹枝歌其十三
沿城楊柳不勝柔,
葉葉絲絲未及秋。
好向風前看搖洩,
最癲狂處最風流。
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 13
Cây liễu dọc thành mềm mại vô cùng
Lá và tơ chưa vào thu
Thích nhìn chúng lay trước gió
Lúc chúng quay cuồng nhất là lúc chúng cao đẹp nhất

Thướt tha cây liễu bên thành
Chúa thu chưa đến lá xanh mượt mà
Đong đưa ngọn gío xa xa
Quay cuồng điệu múa thật là xinh tươi

Cây liễu ven thành rũ ước mơ
Chúa thu chưa đến lá xanh mờ
Thướt tha theo gió ưa nhìn ngắm
Cuồng loạn xinh tươi mái tóc tơ

Thướt tha cây liễu rũ ven thành
Tơ lá chờ thu vẫn mướt xanh
Ngơ ngẩn đứng nhìn lay trước gió
Càng rung cuồng loạn lại càng xinh

40. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 14

Trường quần tập tập duệ khinh tiêu,
Vân kế nga nga ủng thúy kiều.
Doanh đắc quỷ đầu mãn nang khẩu,
Bằng quân vô phúc dã năng tiêu.

蒼梧竹枝歌其十四
長裙習習曳輕綃
雲髻峨峨擁翠翹
贏得鬼頭滿囊口
憑君無福也能消
 
Dịch nghĩa
Điệu ca Trúc chi đất Thương Ngô bài 14
Quần là dài thướt tha áo lụa mỏng,
Tóc bới cao, lông chim thúy điểm trâm cài.
Cứ rằng có tiền bạc đầy túi,
Thì dù không có phúc vẫn có duyên với họ.

Thướt tha áo lụa quần là
Trâm cài trên mái tóc gà búi cao
Trong tay sẵn có tiền bao
Không duyên cũng được vui vầy với ai

Áo lụa quần là dáng thướt tha
Trâm cài trên mái tóc đuôi gà
Trong tay sẵn có tiền đầy túi
Vô phúc tình duyên vẫn mặn mà

Quần là áo lụa dáng kiêu sa
Lông thúy trâm cài tóc búi gà
Sẵn có tiền bao đầy túi nặng
Không duyên tình vẫn cứ đậm đà

41. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 15

Thuyền vĩ đăng lung tứ xích can,
Thuyền đầu hoạ hổ hắc ban ban.
Bố kỳ thượng tả "Tuần hà" tự,
Chỉ cật hoa thuyền bất cật gian.

蒼梧竹枝歌其十五
船尾燈籠四尺竿,
船頭畫虎黑斑斑。
布旗上冩巡河字,
只詰花船不詰姦。
 
Dịch nghĩa
Điệu caTrúc chi đất Thương Ngô bài 15
Đuôi thuyền có đèn lồng cán dài bốn thước,
Mũi thuyền có hình vẽ hổ vằn lông đen.
Cờ trưng cao đề hai chữ "Tuần hà"
Tuần viên chỉ chặn hỏi thuyền hoa, còn thuyền gian thì mặc kệ.

Đèn dài bốn thước đuôi thuyền
Đầu thuyền vẽ cọp lông đen mượt mà
Trên cờ treo chữ “tuần hà”
Thuyền gian chẳng ngó thuyền hoa xét hoài

Đèn lồng bốn thước gắn đuôi thuyền
Đầu vẽ phùng mang chú cọp đen
Giương chữ “tuần hà” cờ lộng gió
Thuyền hoa chặn hỏi mặc thuyền gian

Bốn thước đèn lồng gắn chót đuôi
Đầu thuyền vẽ cọp mắt sáng ngời
Giương cờ đề chữ “Tuần Hà” rõ
Chuyên chặn thuyền hoa thật tức cười

Không có nhận xét nào: